MỤC LỤC BLOG

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2025

Tản mạn về ĐÁ

TIỂU HÙNG TINH

 ảnh internet

            Sỏi đá là vật thể tự nhiên, hiện diện trong cuộc sống thường nhật. Có lẽ địa bàn khu trú đầu tiên là rừng núi, ngôi nhà đầu tiên là hang đá, con người dựa vào đá, chống chọi với  đá, đá đập vào mắt, đi vào sinh hoạt và ăn sâu vào tiềm thức.

            Đá là nền tảng khởi sự, trong từ nguyên cơ sở thì cơ có nghĩa là hòn đá kê chân cột. Khi nói “hòn đá tảng” về mặt chủ trương tức là cơ sở, các quan điểm làm chỗ dựa  vững chắc không thay đổi cho việc đề ra các quyết sách chính trị. Khi xây dựng các công trình lớn người ta cũng có lễ đặt viên đá đầu tiên. Đá quan trọng vậy đó.

            “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”  (Thăng Long thành hoài cổ- Bà Huyện Thanh Quan), thách thức thời gian năm tháng. Vững chãi  bền chặt, “Trơ như đá vững như đồng” (Kiều).  Nói chai sạn, đầu có sạn, dao chém đá… biểu đạt sự phê phán  thái độ vô cảm, chai lì. 

                 Trong một bài ca dao, người bình dân ca “Hòn đá lăn nghiêng lăn ngửa- Em thấy không sửa em chữa lại cho nó lăn đứng- Em thấy không xứng em chữa lại cho nó lăn dẹp- Em thấy không đẹp em chữa lại cho nó lăn tròn- Giận thì nói vậy nhưng dạ vẫn còn thương anh”. Không biết anh chồng này phạm cái lỗi tày đình nào mà bị vợ chì chiết đay, day qua day lại. Anh chồng chẳng khác gì cục đá  bị vần bên này xoay bên nọ liên tục. Một loạt từ vần trắc: “ngửa- sửa- chữa- đứng - xứng- dẹp- đẹp” thể hiện sự tức bực, lời lẽ dằn vặt đay nghiến. Phải đến khi hả tức, câu ca mới chuyển qua vần bằng “tròn- còn”, chuyển giận làm lành, hết giận thì thương.

Đá còn biểu hiện sứ khó khăn nghèo khốn. Vùng đất cằn cỗi nghèo khó là nơi “chó ăn đá gà ăn sỏi”, “đất cày lên sỏi đá” (Chính Hữu).

Người ta thường dùng đá để tạo các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ như bền, cứng (cụ thể) để chỉ tấm lòng, ý chí kiên trung (tâm lí, trừu tượng). Tôn Thọ Tường (một nhà nho theo Tây)  làm thơ tán dương sức mạnh Pháp, bị nhà nho yêu nước Phan Văn Trị quật lại: “Chớ mượn hơi hùm rung nhát khỉ- Lòng ta sắt đá há lung lay”. Sắt đá chỉ sự vững tâm. Thời trẻ, Phan Bội Châu đã có bài phú Bái thạch vi huynh (Lạy đá làm anh) nổi tiếng bày tỏ chí khí vá trời lấp biển:

“Ba sinh lấp biển có lòng, chưa quên nhờ bác

Một mảnh vá trời ra sức, nay lại gặp anh.”

Nói đá không thể không nhắc đến cái nhìn và cách mô tả tinh nghịch của bà Hồ Xuân Hương. Dưới mắt bà, đá trở nên sinh động “Kẽ hùm rêu mốc trơ toen hoẻn- Hòn đá xanh rì lún phún rêu”. Đá tự nhiên hoang dã gợi liên tưởng một thứ gì đó không phải đá.

Đá cứng nhưng vẫn có thứ “cứng” bền hơn  đá, bền vững về mặt hóa học hoặc cơ học  có thể bị hủy diệt, “đá nát vàng phai”, sự bền vững của ý chí con người còn vượt lên cả đá. Trong văn chương, con người thường mượn đá như bệ phóng, mượn phẩm chất của đá để cho phẩm chất tinh thần  người vượt lên. Câu “Nước chảy đá mòn” thể hiện sức mạnh của lòng kiên trì vượt qua mọi trở lực (tinh thần và vật chất). “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn” thể hiện lòng chung thủy bền chặt, “Dầu cho sông cạn đá mòn- Còn non còn nước hãy còn thề xưa” (Ca dao).

Cứng, chặt nhưng đến tay Nguyễn Du thì đá bị “mềm hóa”, “xốp hóa” do tác giả dùng thủ pháp khoa đại (ngoa dụ). Kiều bán mình cho mã Giám Sinh để chuộc cha, cái thời điểm kí vào tờ thỏa thuận, nỗi đau của nàng lên tột đỉnh: “Lệ rơi thấm đá tờ chia rủ tằm”.  Trong Bình Ngô đại cáo, để tạo sức mạnh cho câu văn, Nguyễn Trãi cũng dùng bút pháp khoa đại: “Gươm mài đá  đá núi cũng mòn- Voi uống nước nước sông phải cạn” làm hiển hiện uy vũ ngất trời của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.

Người thợ lặn ngày xưa đôi khi còn đeo đá vào người để giảm bớt sức đẩy của nước, giúp xuống sâu nhanh hơn. Đá biểu trưng sức nặng, “nặng như đeo đá”. Thế nhưng chuyện dân gian vẫn chấp nhận nghịch lí đá nổi trên nước. Truyền thuyết kể rằng  Hai Bà Trưng sau khi bị Mã Viện đánh bại liền trầm mình xuống sông  Hát. Xác hai bà hóa thành hai tượng đá nổi lên. Nhân dân hai bên bờ vớt  lên, lập miếu thờ và rất linh ứng. Truyền thuyết thì có tính thần kì, thần thánh hóa các vị anh hùng. Đã thần thánh hóa tức nâng lên siêu nhiên, phi thường thì cần gì thứ quy luật thông thường tất yếu nữa. Đây chỉ là sự biểu trưng. Hai Bà hóa đá tức kết tinh sự bền vững, sự bất diệt, trường tồn trong lòng dân tộc.

Cứng bền như đá rồi cũng cô đơn như đá, cô đơn hóa thạch. Có thể nói hình ảnh này thể hiện đầu tiên trong truyện cổ tích Trầu cau. Tân và Lang là hai anh em ruột, mồ côi cha mẹ, sống yêu thương nhau. Tân có vợ, tình anh em có chút xao lãng, Lang buồn bỏ đi, đi mãi đến bờ sông nọ chết hóa thành đá. Đá  kết tinh nỗi buồn và sự cô độc. Trong truyện cổ tích Đá Vọng phu kể chuyện nàng Tô Thị có chồng đi biệt, ngày ngày nàng bồng con ra ngóng đợi “Vọng phu xưa cũng trông chồng, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha”. Và rồi chết, hóa đá.  Đá vọng phu trở thành một thắng tích biểu trưng lòng chung thủy, nỗi nhớ mong “Đồng Đăng có phố Kì Lừa, Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh” (Ca dao).  Lời một bài nhạc của Trịnh Công Sơn gây cho chúng ta  rờn rợn về nỗi cô đơn- cô đơn của kiếp người- “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” (Diễm xưa). Đá còn vậy  huống chi người, sao vẫn cứ lẻ loi chia rời!

Đá có những tính chất khách quan, là một phần của thế giới, đá vốn vô tri, chỉ thành biểu tượng sinh động, mang ý nghĩa sâu sắc  khi con người gởi gắm vào đó những giá trị tinh thần.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét