TRẮNG :
tính từ chỉ màu sắc, đối chọi với đen. Màu sáng, có thể làm nền cho các màu, có
thể xem như không có màu (mất màu) khi nói tẩy
trắng, bạc màu (mất dần màu nên
hóa trắng- đất bạc màu: đất mất dần dưỡng chất). Trắng ngoài nghĩa chỉ màu sắc còn hàm nghĩa
sạch: sạch sẽ hoặc sạch trơn.
Có thể là giảm độ trắng bằng
cách láy từ: trăng trắng hoặc tăng độ
biểu hiện và sự phân hóa khi ghép theo công thức: trắng + … (bạch, bệch, bóc, bong, bốp, dã, hếu, lốp, lôm lốp, nuốt,
ngà, ngần, nhởn, nõn, nuột, phau, phếch, tinh, toát, trẻo, xóa...). Có thể
ghép với từ tương đương hay từ đối chọi để tạo nên một từ ghép hợp nghĩa: trắng đen, trắng trong, trinh trắng, trắng
trợn…Có thể tạo một loạt thành ngữ theo khi ghép với các yếu tố theo công
thức trắng như + …(bông, bông bưởi, ngà,
trứng gà bóc, tuyết, vôi…)
Da trắng, răng trắng đều chỉ vẻ đẹp, trắng da dài tóc chỉ phụ nữ khỏe đẹp nhờ no đủ, thong thả. Có anh chàng nọ khoe da vợ mình trắng, bảo rằng thời chiến tranh, khi máy bay tới thả bom, thấy vợ anh ta mặc áo trắng, mọi người chung quanh la to là phải cởi bỏ áo trắng đi kẻo máy bay thấy bỏ bom chết. Vợ anh ta cũng hoảng hốt cởi áo nhưng mọi người lại la mặc ngay áo trắng vào kẻo trắng quá, máy bay thấy mà bỏ bom chết hết. Da trắng đến hơn cả áo trắng, hết cỡ! Mặt trắng chỉ kẻ học trò (bạch diện thư sinh); thần mày trắng (bạch mi)– thần nhà thổ (Trên treo một tượng trắng đôi lông mày- Kiều); dân da trắng phân biệt với dân da màu (da đen hoặc da vàng); (bệnh) máu trắng; tóc trắng (chỉ cả đầu bạc, còn khi nói tóc bạc thì có thể chỉ từng sợi); bảng đen phấn trắng- phương tiện chủ yếu trong dạy học; tờ giấy trắng chỉ sự ngây thơ- nhiều người cho rằng trẻ em như tờ giấy trắng, người lớn muốn viết gì vào đó cũng được, đây là quan niệm sai lầm về giáo dục; gạo trắng nước trong chỉ xứ sở trù phú.
Cũng cần phân định tay trắng và trắng tay. Tay trắng là không có
vốn liếng lúc đầu (tay trắng làm nên) còn trắng tay là bay sạch vốn liếng. Nói
cách khác, tay trắng là xuất phát từ con số không còn trắng tay là trở về con
số không. Thức trắng đêm, trắng mắt- trắng mang nghĩa suốt, toàn
bộ.
Trắng- tiếng Hán Việt là bạch. Bạch có thể kết hợp hạn chế với từ
thuần Việt: sáng bạch, trắng bạch, chuột
bạch, hoa hồng bạch.
Bạch cầu-
huyết cầu không màu, bảo vệ cơ thể chống lại khuẩn bệnh; bạch biến (điến)- lang ben; bạch
đái- khí hư; bạch huyết- chất
dịch vận chuyển trong cơ thể, màu trong suốt, hơi dính; bạch tạng- bệnh thiếu sắc tố làm cho da trắng, tóc vàng hoe; bạch trọc- bệnh lậu. Nhiều loại cây bắt
đầu từ bạch: bạch đàn- khuynh diệp; bạch dương- dương trắng ở vùng ôn đới…Chim thú thì có bạch yến- én trắng, bạch hổ, bạch mã, bạch cẩu…Trong kim loại thì bạch kim (vàng trắng) quý hơn cả. Ghét kẻ xâm lược, trước đây cha
ông chúng ta thường gọi người Pháp là bọn bạch
quỷ- quỷ da trắng.
Da trắng vỗ bì bạch là vế đối tương truyền của Đoàn Thị Điểm ra, bì bạch là từ chỉ âm
thanh vừa có nghĩa trắng da- chơi chữ,
đến nay nhiều người đối nhưng chưa có vế nào chỉnh. Một vế khác: Cô Hồng cởi áo cô Hồng trần. Trần đây có nghĩa (ở) trần vừa hàm ý chơi chữ hồng trần (cuộc
đời gió bụi). Có người đối lại: Chú Bạch
may quần chú Bạch diện. Một người
cho rằng đối vậy là rất chỉnh nhưng chưa hay, phải đối: Chú Bạch vén quần chú Bạch đái. Đái
là tiểu tiện , bạch đái lại là một loại bệnh. Đối vậy đã chỉnh lại hay.
Xin nêu ra, hay dở tùy người đọc phán xét.
Đời Lý, có giai thoại một vị
sư được bố trí làm người chèo đò đưa sứ giả Tàu qua sông. Thấy đôi ngỗng đang
bơi, sứ Tàu cảm hứng đọc: “Nga nga lưỡng
nga nga- Ngưỡng diện hướng thiên nha” (Song song ngỗng một đôi- Ngửa mặt
ngó ven trời). Sư chèo đò đọc tiếp: “
Bạch mao phô lục thủy- Hồng trạo bãi thanh ba” (Lông trắng phơi dòng biếc-
Sóng xanh chân hồng bơi”. Nối thành một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, thể hiện
được bản lĩnh trự cường. Sứ Tàu phải cảm phục. Truyện Kiều là một khúc đoạn
trường và có thể nói câu sau đây là đau đớn, chua chát nhất. Tú bà ép Kiều tiếp
khách làng chơi, Kiều tự tử, Tú bà lập mưu sai Sở Khanh rủ Kiều trốn, Kiều nghe
theo và sập bẫy. Bị đánh đập tàn tệ, Kiều kêu lên: “Tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Lí ra phải xin chừa thói lang
chạ chứ ai lại xin chừa tấm lòng trinh bạch, thế mà Kiều phải xin chừa điều tốt
đẹp để đi vào con đường xấu xa, bi đát đến thế là cùng!
Màu trắng đã đi vào tập
quán và văn học. Nhà thơ Kiên Giang Hà
Huy Hà nổi tiếng với bài Hoa trắng thôi
cài trên áo tím. Tập quán tặng bông
hồng cho người còn mẹ, tặng bông hồng
trắng (hồng bạch) cho người mất mẹ của người nước ngoài nay trở thành tập
quán tặng hoa của phật tử Việt nam trong ngày lễ Vu Lan (báo hiếu). Nguyễn Gia
Thiều từng đau đớn thốt lên trước cuộc
đời bể khổ: “ Trắng răng cho tới bạc đầu-
Tử sinh kinh cụ làm nau (đau) mấy lần” (Cung
oán ngâm khúc). Và không thể không nhắc đến màu trắng tang tóc trải dài
trong bài thơ khi Nguyễn Bính khóc một cô gái: “Sáng nay vô số lá vàng rơi- Người gái trinh kia đã chết rồi- Có một
chiếc xe màu trắng đục- Hai con ngựa trắng bước hàng đôi- Mang theo một chiếc
quan tài trắng- Và những bông hoa trắng lạnh người- Theo bước những người khăn
áo trắng- Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi…(Lỡ bước sang ngang).
Nhưng màu trắng cũng là màu áo
học trò, màu trinh nguyên ngây thơ của tuổi đầu đời đẹp nhất –“Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong” và
nếu có vương vấn thì đây là những xúc động dễ thương đầu đời: “Mối tình đầu của tôi- Là mây giăng giăng
ngoài của lớp- Là áo ai bay trắng cả đất trời”(Đỗ Trung Quân).
3- 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét