NGUYỄN VĂN HÙNG
ảnh internet
1. Vấn đề cần
giải quyết:
- Làng hình
thành từ bao giờ, vào
triều đại nào? Những
biến đổi về tên làng.
- Ai là tổ
khai khẩn, có tổ khai canh không? Các họ
cùng khai khẩn một lúc hay chia
ra từng giai đoạn. Quan hệ giữa
các họ khai khẩn và các họ đang tồn tại hiện
nay.
2. Đánh giá những chứng
tích, văn bản, bi kí, truyền thoại làm cơ sở.
- Mộ làng: Mộ đất
không bia, bia dựng về
sau này (1991), thông tin sơ lược.
Có 1 bia mộ ghi tiền khai khẩn, 1 bia mộ ghi hậu khai canh, 6 bia mộ ghi kế hậu khai
canh. Căn cứ chính.
- Nghè làng: Có miếu thờ,
ghi các họ khai khẩn, câu đối,
hoành phi. Căn cứ chính.
- Văn bia dựng tại chùa làng
ghi sắc phong thời vua Khải Định cho
4 họ (vị) khai khẩn. Căn
cứ chính yếu và đáng tin cậy nhất.
- Phủ ý các họ tộc Nguyễn Đức có đề cập
đến họ Dương (họ khai khẩn); phủ ý
họ Nguyễn Quang có đề cập đến biến
đổi tên làng, tên họ; họ Nguyễn
Văn và Nguyễn Đình không còn phủ ý.
- Các tài liệu lịch sử: Theo Quốc
sử quán triều
Nguyễn thì làng được thành lập từ thời Lê. Ô châu cận lục của Dương Văn An đời Mạc
cũng có đề cập đến
làng. Căn cứ chính.
Một căn cứ tham khảo nữa là
lịch sử thành lập làng Bích La kế cận: Năm 1527 (Mạc Đăng Dung lên ngôi), 14 hộ
dân theo phó tướng triều Mạc Lê Mậu Doãn (Doãn Lộc hầu) thành lập làng Bích La.
- Các truyền thoại về
làng là những câu chuyện nhuốm màu lịch sử
nhưng còn thiếu căn cứ, lắm khi chồng chéo, mâu thuẫn.
+ Tổ tiên làng
di cư từ Thanh Nghệ Tĩnh vào bằng
đường biển, đến Vân Huề (Triệu
Vân) thì phân tán, một số tới vùng
đất làng hiện nay và thành lập
làng.
+ Làng được
thành lập từ thời các chúa Nguyễn (từ khi Nguyễn Hoàng
vào trấn giữ).
+ Lúc đầu, làng do một
võ quan họ Trần tên Trần Trọng
thành lập. Đến đời chúa Nguyễn, chúa
giao cho một văn
quan họ Nguyễn tên Nguyễn Phục
thành lập. Văn quan họ Nguyễn
quy tụ một số thuộc
cấp có họ khác nhau rồi cho
đổi thành họ Nguyễn (Nguyễn
Quang, Nguyễn Đức, Nguyễn Văn, Nguyễn Đình). Họ Nguyễn Hữu tách ra
từ họ Nguyễn Quang.
+ Có suy đoán rằng
từ họ Nguyễn khai khẩn (Nguyễn Phục)
chia làm 4 họ Nguyễn Đức, Nguyễn Quang,
Nguyễn Văn, Nguyễn Đình. Con cháu 4 họ đó trong làng hiện nay là con
cháu cụ Nguyễn Phục.
+ Trong 4 họ khai khẩn
làng, ba họ Trần, Dương,
Phan không còn, chỉ
họ Nguyễn nối truyền con cháu
đến ngày nay.
+ Làng từng có tên Phú Xuân, sau vì kị húy (trùng tên với kinh thành Phú Xuân)
nên đổi thành Phú Liêu (có ghi trong lời Tựa phủ ý họ Nguyễn Quang-
1937).
+ Tên của bốn vị
khai khẩn tuần tự là: Trần Trọng, Nguyễn
Phục, Dương Phẩm, Phan Long. Tên của các vị
tổ họ là Nguyễn Đức Thưởng, Nguyễn
(Quang) Thiệu, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đình Quý Công (không rõ
tên nên gọi là
quý công (quý ông).
Tin rằng các truyền
thoại trên không phải bịa đặt
mà do tam sao thất bổn hoặc suy
đoán thiếu căn cứ, cần chọn
lọc, phục chính lại. Đây cũng là căn cứ chính để xem
xét.
3. Dựa vào những
căn cứ chính, lấy đó làm cơ sở,
những điều sau
đây cần được thừa nhận:
- Làng được thành
lập từ thời nhà Lê (theo
Quốc sử quán triều
Nguyễn) tức trước 1527 (Lê Cung Hoàng nhường ngôi
cho Mạc Đăng Dung). Trong Ô châu cận lục
của Dương Văn An (1555) đã ghi
tên làng là Trúc Liêu thuộc tổng An Cư,
huyện Đăng Xương (Vũ Xương), phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa (Huyện Vũ
Xương, phủ Triệu Phong đã có từ thời Lê- năm 1469 Lê Thánh Tông đã đổi
tên huyện Hoa Lăng thành huyện Vũ (Võ) Xương thuộc phủ Triệu Phong). Có
thành lập thì đương nhiên có khai khẩn, làng
được thành lập triều Lê thì vị
khai khẩn đầu tiên phải ở vào triều Lê. Ngài Trần Trọng là
vị đứng đầu trong
các vị khai khẩn (và có thể có thêm các vị khai khẩn khác) phải ở
vào thời đó.
- Làng do 4
vị (họ) Trần, Nguyễn, Dương Phan khai khẩn còn ghi rõ
trong miếu thờ. Đời Khải Định tam niên (1918) đã sắc
phong thần cho bốn vị: Sắc Khai Khẩn Trần Đại Lang, (Nguyễn Đại
Lang, Dương Đại Lang, Phan Đại
Lang) Tước Phong Dực Bảo Trung Hưng
Linh Phù Tôn Thần (Vị thần tôn nghiêm linh ứng che chở giữ gìn sự
hưng thịnh). Tên của bốn vị là Trần Trọng,
Nguyễn Phục, Dương Phẩm, Phan Long.
- Làng
có 4 họ chính là Nguyễn Đức, Nguyễn Quang, Nguyễn Văn, Nguyễn Đình
(các họ Nguyễn Đăng, Phạm, Nghiêm,
Trương, Nguyễn gia nhập vào làng về
sau này). Người giữa 4 họ
có thể hôn thú với nhau chứng tỏ các họ không
cùng huyết tộc thân thuộc. Từ đó
có thể suy ra rằng người trong 4 họ trên không phải là con
cháu của họ Nguyễn được thờ làm khai khẩn. Nếu họ cùng là
con cháu họ Nguyễn khai khẩn
thì sẽ phạm vào loạn luân. Nếu có việc “chia họ để hôn thú” này thì sao “sự biến” lớn như vậy lại không được lưu truyền. Đó là điều
không thể. Như vậy họ Nguyễn đứng tên khai khẩn không còn con cháu ở làng.
- Bốn họ
trong làng không phải anh em cùng họ chia ra, là 4 họ độc lập, bình
đẳng, không có họ trên họ dưới, họ
anh họ em.
- Bốn họ Nguyễn Đức, Nguyễn Quang, Nguyễn Văn, Nguyễn
Đình (các vị tổ họ là Nguyễn Đức Thưởng, Nguyễn (Quang) Thiệu, Nguyễn Văn
Linh, Nguyễn Đình… không phải là bốn họ khai khẩn, không thờ ở nghè làng mà
có nhà thờ họ riêng.
Đây là
4 họ tới canh tác xây
dựng làng về sau (tới canh tác sau khi làng hình thành, đã được các họ
khác khai khẩn). Xưa nay làng chỉ truyền tụng
và thờ phụng 4 họ khai khẩn (Cả trong các mộ tổ làng, 1 mộ
ghi tiền khai khẩn, 1 mộ ghi hậu
khai canh, 6 mộ ghi kế hậu khai canh- theo bia dựng 1991) không nói đến
các tổ họ là khai
canh (xem thêm chú thích (**))
4. Vấn đề tồn nghi cần được
xác minh làm rõ:
Làng chỉ có khai khẩn
hay có cả khai canh? Trong sắc phong ghi ở bia dựng trong khuôn viên chùa năm 1918 chỉ ghi 4 vị khai khẩn
còn trong bia các mộ tổ làng dựng năm 1991 thì ghi Tiền khai khẩn (mộ bia ở
Học Xá), Hậu khai canh (mộ bia ở góc Cồn Hàn), Kế hậu khai canh ở
6 bia
mộ còn lại. Như vậy phải
chăng làng có cả khai khẩn lẫn khai canh theo mô thức Tiền khai khẩn - hậu khai
canh? Sắc phong trong bia dựng ở chùa làng là tài liệu chính xác nhất vì xuất hiện sớm (1918), được nhà nước
phong kiến chính thức thừa nhận và vua
Khải Định ban sắc phong phải là căn cứ
chính yếu. Việc ghi trên bia mộ làng là tiền khai khẩn, hậu khai canh, kế
hậu khai canh căn cứ vào đâu, dựa trên cơ
sở, tài liệu nào? Tại sao
không dựa vào bia dựng ở chùa? Sự
khác biệt này phải chăng do việc ghi trên bia mộ làng
năm 1991 thiếu căn cứ hoặc trước
đây có cả khai khẩn lẫn khai
canh nhưng khi đề nghị ban sắc phong thì chỉ ghi khai khẩn, nếu có thì chứng lí đâu? Sự kiện dựng và ghi trên bia làng diễn ra
năm 1991, nhiều người tham gia vào việc hệ trọng này vẫn
còn sống, cần xác minh làm rõ, nếu
không thì vấn đề tồn nghi này sẽ
kéo dài đến muôn đời. (*)
5. Giả thuyết thành lập:
Làng được thành lập từ
thời nhà Lê do ngài Trần Trọng và
các ngài Dương Phẩm, Phan Long đứng
tên khai khẩn (Tiền khai khẩn). Qua thời
Mạc, thời Lê Trịnh có thể do không
đủ số dân đinh khai phá, bỏ hoang
nhiều đất đai nên
các chúa Nguyễn đã cho tái lập và
đổi tên từ Trúc Liêu thành Phú Liêu, giao ngài Nguyễn
Phục đứng tên khai khẩn tiếp (Hậu khai khẩn)(**). Sở dĩ đặt
vấn đề thiếu dân đinh
ở đây vì ba họ khai khẩn là Trần, Phan, Dương từ xa xưa
đã không
con cháu sinh sống ở làng, họ
Dương cũng chỉ truyền
đến ngang đời thứ 5 của
họ Nguyễn Đức, chứng tỏ cư dân của
thế hệ khai khẩn trước quá ít ỏi,
đất đai
hoang hóa. Ngài Nguyễn Phục với danh nghĩa khai khẩn đã quy tụ
các thuộc cấp của những họ khác nhau là Nguyễn Đức, Nguyễn Quang,
Nguyễn Văn, Nguyễn Đình tiếp tục vỡ hoang (***) và phát triển làng.
-------------------------------------------
(*) Khai khẩn hay khai canh làng đều là người
đầu tiên khai phá thành lập làng
theo các
giai đoạn. Tuy vậy, danh xưng khai khẩn có thể dùng để tôn xưng đối với những người có công trạng lớn với làng về
sau.
Trước đây, mộ
họ mộ phái đa phần đều được dựng
bia vì người ta biết rõ, còn
mộ làng 8 ngôi đều không có bia, chỉ
gọi là mả làng, không phải vì làng
không đủ tài lực mà vì các cụ xưa thận trọng, không
biết rõ tên hiệu, thế thứ, tôn
xưng, danh vị nên không dám tùy
tiện dựng bia. Nay (1991) các vị căn cứ vào
đâu để dựng
bia truyền đời?
(**) Hiện tượng nhiều đời khai khẩn (Tiền khai khẩn - Hậu khai khẩn)
cũng phổ biến, thậm chí có nơi những người có
công đức lớn trong
việc xây dựng làng
xã về sau có khi cũng được tôn làm khai khẩn, do đó mới có hiện tượng
khai khẩn trước và khai khẩn sau (Tiền- hậu khai khẩn).
(***) Quan niệm Tiền
khai canh hậu khai khẩn phổ biến ở nhiều làng xã
hơn là quan niệm Tiền khai khẩn hậu khai canh.
Trong sắc phong thời trước, ở những làng
có cả khai khẩn và khai canh thì thường đặt khai
canh trước khai khẩn. Làng chỉ có các tôn xưng khai khẩn khi đề nghị
vua sắc phong cho 4 vị tổ làng, điều này nhất quán với
quan niệm Tiền khai khẩn - Hậu khai khẩn.
NGUYỄN VĂN HÙNG
30-4-23- Chỉnh sửa
ngày 11 - 8 - 2023 (Sau khi thăm và xem
bia mộ
làng)
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
PHỤ LỤC :
1. CÂU ĐỐI, HOÀNH PHI NGHÈ
LÀNG PHÚ LIÊU
- Cổng ngoài thứ nhất:
* 萬 世 所 由 (佔?) 䀡 仰 - Vạn
thế sở (nơi, chỗ) do (ở, tại) chiêm ngưỡng- (Muôn đời sẽ
chiêm ngưỡng nơi đây)
二 氣 為 之 往 來 - Nhị khí
vị (giúp cho) chi (đã) vãng lai- (Hai
khí (âm dương) đã giúp vào sự giao hòa
qua lại ((quá) vãng lai (sinh))
- Cổng 2- Hai
câu giữa:
* 日 月 祥 光 纔 普 炤 - Nhật nguyệt
tường quang tài phổ chiếu- (Ánh
sáng lành của mặt
trời mặt trăng cùng chiếu soi rộng khắp)
乾 坤 瑞 氣 共 鍾(?)灵 - Càn khôn thụy (tốt lành) khí cộng chung (hợp lại) linh- (Khí tốt
lành của trời đất hợp
lại linh thiêng)
* 四 家 功 德 同 天 地 - Tứ gia
công đức đồng thiên địa-
(Bốn nhà công đức (còn mãi) cùng trời đất)
双 廟 英 灵 自 古 今 - Song miếu anh linh
tự cổ kim- (Hai miếu anh
linh tự
xưa nay)
- Các chữ triện
trong hai miếu:
- Miếu bên tả (ngoài
vào, đọc từ phải sang trái): TRẦN
DƯƠNG
- Miếu bên hữu (ngoài vào, đọc từ
trái sang phải: NGUYỄN PHAN
- Ở miếu Thành Hoàng:
* 英 灵 憑 岳 瀆 (?) - Anh linh
bằng nhạc độc (tạo?)- (Anh linh dựa
vào núi cao lạch sâu)
持 護(?) 足 江 山
- Trì hộ túc giang sơn- (Hộ trì đủ
đầy (khắp) núi sông)
- Miếu khai khẩn bên tả
(trong nhìn ra): 光
於 前 - QUANG
Ư TIỀN (Trước thì
sáng sủa rực rỡ- Xưng tụng những người có công đầu khai hoang lập ấp)
靈 扶 蒙 帝
眷 - LINH PHÙ MÔNG ĐẾ QUYẾN
(Anh linh phù hộ được ơn thần chủ chiếu cố) (Anh linh phù hộ được nhà vua chiếu cố (ban sắc phong thần))
功 髙 聚 族 成 - CÔNG CAO TỤ TỘC THÀNH (Công
đức cao cả nhờ tụ hợp các họ mà thành)
- Miếu khai khẩn bên hữu
(trong nhìn ra): 開 必 先 - KHAI TẤT TIÊN (Xưng tụng lớp
người đi trước mở mang)
任 闢 開
先 步
- NHẬM (?) TỊCH (?) KHAI TIÊN BỘ (Đi trước
đảm nhận việc khai phá)
寸 討 荷
洪 恩
- THỐN THẢO HẠ (hà) HỒNG (?) ÂN (Trong mỗi một tấc gánh vác sửa
trị để lại bao ân đức lớn lao)
(Ân đức lớn trong từng chút công lao)
(?) Những dấu ?
trong ngoặc (?) lưu ý đến sự khác biệt trong Làng Phú Liêu qua tài
liệu và sách báo xưa nay..
2- VĂN BIA DỰNG Ở CHÙA LÀNG
唘 定三 年仲秋- Khải Định Tam
Niên Trọng Thu (Khải Định năm thứ 3
(1918), tháng 8)
勑 開 墾 陳 大 郎 爵(?)封 翊 保 中 興 𩄇 扶 尊 神 - Sắc Khai Khẩn Trần Đại Lang Tước Phong Dực Bảo
Trung Hưng Linh Phù Tôn Thần
勑 開 墾 阮 大 郎 爵(?) 封 翊 保 中 興 𩄇 扶 尊 神 - Sắc Khai Khẩn Nguyễn Đại Lang Tước Phong Dực Bảo
Trung Hưng Linh Phù Tôn Thần.
勑 開 墾 揚 大 郎 爵(?)封 翊 保 中 興 𩄇 扶 尊 神 - Sắc Khai Khẩn Dương Đại Lang Tước Phong Dực Bảo
Trung Hưng Linh Phù Tôn Thần.
勑 開 墾 潘 大 郎 爵(?)封 翊 保 中 興 𩄇 扶 尊 神 - Sắc Khai Khẩn Phan Đại Lang Tước Phong Dực Bảo
Trung Hưng Linh Phù Tôn Thần.
(Sắc ban Khai Khẩn cho quan lớn họ Trần (họ Nguyễn, họ Dương, họ Phan) tước phong vị Thần Tôn
Quý Linh Ứng Phù Hộ để Che Chở Bảo
Vệ sự Trung Hưng) (*)
夲 社 拝 誌 - Bổn xã bái chí (Làng chúng tôi lạy xin ghi lại)
-------------
(*) Đại lang ở đây không dịch là con trai trưởng mà dịch theo nghĩa quan (lang), đại lang (quan lớn), gọi kiểu tán dương để tỏ sự trọng vọng khi phong thần.