Trai tài gái sắc, sắc được xem là
phẩm chất riêng của người phụ nữ. Xưa nay đã tốn biết bao lời lẽ, giấy mực để
tôn vinh người đẹp. Trong lịch sử, nhiều mĩ nhân đã làm điên đảo thậm chí đổ sụp
cả một triều đại. Người đẹp là mục tiêu cho bọn vua chúa, kẻ lắm tiền nhiều bạc
săn tìm, là đối tượng cho văn nhân thi sĩ
chiêm ngưỡng và ngợi ca
Trong văn học cổ điển Việt Nam,
không ít nhân vật là mĩ nhân sắc nước hương trời: Dao Tiên trong “Hoa tiên truyện”,
Giáng Kiều trong “Bích Câu kì ngộ”, Trần Kiều Liên trong truyện Phan Trần,
Nguyệt Nga trong “Lục Vân Tiên”. Cung oán ngâm khúc và Truyện Kiều là hai tác
phẩm tiêu biếu thể hiện sắc đẹp người phụ nữ. Trong “Cung oán”, Nguyễn Gia
Thiều đã đẩy bút lực, nâng ngôn từ lên tột đỉnh để miêu tả nhan sắc tuyệt trần
của người cung nữ:
“Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa
Vẻ phù dung một đóa khoe tươi
Nụ hoa chưa mím miệng cười
Gấm nàng Ban đã nhạt mùi thu dung
Áng đào kiểm đâm bông não chúng
Khóe thu ba gợn sóng khuynh thành
Bóng gương lấp ló trong mành
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa
Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương
trời đắm nguyệt say hoaTây Thi mất vía Hằng Nga giật mình.”
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng dùng
những câu trang trọng, gọt dũa nhất để thể hiện sắc đẹp Thúy Kiều: “Làn thu thủy, nét xuân sơn- Hoa ghen thua
thắm liễu hờn kém xanh- Một hai nghiêng nước nghiêng thành…” Trên năm chục
lần dùng những từ ngữ thanh quý để tôn vinh nhan sắc Kiều, “Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa”.
Nhan sắc người phụ nữ trong văn học
cổ điển đều có chung những khuôn mẫu, chuẩn mực mang tính ước lệ để đối sánh:
nào hoa, nguyệt, thu thủy, thu ba, xuân xanh, xuân sơn, má đào, lời ngọc, hương
trời…Mẫu quý phái thì có Tây Thi, mẫu tưởng tượng thì có tiên nữ, Hằng Nga…Đều
là lí tưởng. Nét đẹp chọn lọc quá, lí tưởng quá thành ra xa vời như là những gì
thiêng liêng, cao khiết để chiêm ngưỡng tôn thờ hơn là để chiếm lĩnh, ôm giữ
trong vòng tay mình.
Truyện cổ Việt Nam cũng không thiếu
mĩ nhân: Mị Nương, Mị Châu, Tiên Dung, cô Tấm, nàng công chúa…Tiếc thay, truyện
chỉ kể rằng những phụ nữ ấy rất đẹp còn đẹp thế nào thì không nói. Người nghe
ngầm hiểu, ngầm thừa nhận rồi tưởng tượng, hình dung theo kiểu của mình. Trong
truyện cổ, người ta chú ý tình tiết, cốt truyện, thắt nút mở nút hơn là miêu
tả.
Vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca
dao- tục ngữ có tiêu chuẩn tiêng, khác với quan niệm thẩm mĩ phong kiến. Mắt
phụng mày ngài, mặt hoa da phấn…rất ít được nói tới. Vẻ đẹp ở đây cụ thể hơn:
mắt bồ câu, má lúm đồng tiền, mũi dọc dừa…”Đàn
bà tốt tóc thì sang”, “Răng đen rưng rức…” “Cổ tay em trắng như ngà- Con mắt em liếc như là dao cau- Miệng cười
như thể hoa ngâu- Cái khăn đội đâu như thể hoa sen”
Có thể nói “Mười thương” là bài ca dao tiêu biểu nhất ca ngợi sắc đẹp nữ giới.Mười thương cũng là
mười tiêu chuẩn thẩm định : “ 1. tóc bỏ đuôi gà- 2. ăn nói mặn mà có
duyên- 3. má lúm đồng tiền- 4. răng lánh
hạt huyền kém thua- 5. cổ yếm đeo
bùa- 6. nón thương quai tua dịu
dàng- 7. nết ở khôn ngoan- 8. ăn nói lại
càng thêm xinh- 9. cô ở một mình- 10. con mắt có tình với ai” . Đủ các tiêu
chuẩn : đẹp tự nhiên, đẹp trang điểm, đẹp tính nết , hoàn cảnh đẹp… Vẻ đẹp người
con gái trong ca dao độc đáo, hồn nhiên,
thuần phác, gần gũi và tràn đầy nhựa sống, chỉ một chi tiết thôi cũng đã là một
hấp lực làm đắm đuối giới mày râu: “Vú em
chum chúm chũm cau- Cho anh bóp cái có đau anh đền”. Ối, được thì đền cả
người cả đời anh cũng chịu!
Tuy vậy, do quan niệm gần như chính
thống trong dân gian là “Xấu mặt chặt
nồi”, “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”, “Cái nết
đánh chết cái đẹp” nên nội dung miêu tả nhan sắc người đẹp trong tục ngữ-
ca dao ít ỏi, đậm đà nhưng hiếm hoi.
Nhiều khi, đề cập đến nhan sắc rồi hạ thấp, phủ nhận để khẳng định tính tình hoặc
chỉ xem nhan sắc dưới giác độ nhân tướng
học: siêng năng hay lười nhác, có khắc sát chồng con, đẻ ủm thế nào, nuôi con
tốt không…Và khi nói “duyên thầm”, “người xấu duyên lặn vào
trong, Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài” thì các tiêu chuẩn về nhân
trắc trở nên mù mờ, tiêu chuẩn vẻ đẹp thiên về tâm lí chủ quan hơn là sinh lí
cơ thể, ngoại hình khách quan. Và như vậy thì ai cũng có thể có duyên, cũng “đẹp” cả.
Vẻ đẹp người phụ nữ trong văn học cổ
điển là để chiêm ngưỡng, làm cho con người “tinh tấn” thêm, ngược lại, nét đẹp
của các cô gái trong ca dao- tục ngữ gần gũi hơn, có thể “cầm nắm” được. Người
đẹp hiện ra độc đáo, hấp dẫn nhưng còn mờ nhạt ít ỏi quá. Phải tìm đến kho tàng
trường ca Tây Nguyên thì nhan sắc người
phụ nữ mới được chú ý miêu tả không kém gì công phu miêu tả sắc đẹp các vị nữ
thần hoặc giai nhân trong thần thoại hoặc anh hùng ca Hi lạp.
Hãy chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng
Bơra Tang (sau này là vợ của Xing Mưu) trong “Xing Nhã”:
“Xing
Nhã nhìn Bơra Tang, thấy bắp chân dưới của nàng bẹ như khoai môn, bắp vế trắng
tựa ngà voi, bụng thon thon như bụng kiến vàng, ngực nàng nở hình nồi lở, đít
trứng chim, ngón tay múp tựa lông nhím. Mắt nàng sáng hơn sao Bắc Đẩu, bước đi
nhịp nhàng hơn voi đực mở ngà, hơn voi cái uốn vòi, khiến lòng Xing Nhã rạo rực
yêu thương”
Cái đẹp tự nhiên, hồn hậu, khỏe
khoắn. Tâm lí e ngại, giữ ý, chỉ dám liếc không dám ngó nơi kín đáo bị vượt
qua, ở đây cứ nhìn ngắm những chỗ ưa nhìn ưa ngắm, khỏi phải kiêng khem cấm kị.
Hãy chiêm ngưỡng tiếp vẻ đẹp của Bơra Tang:
“Nàng
mặc một cái váy hoa kơ-nam, váy hoa ê-máo, váy thêu hình con hươu, thêu hình
thần thánh đỏ rực. Mép trên tấm vải thêu hình ông sao, mép dưới thêu hình ông
trăng, hai bên gót chân nàng đeo lục lạc vàng…Toàn thân nàng đẹp hơn hình con
cá măng bơi lội. Nàng mặc áo đen hơ-ngâm, áo màu hạt gắm. Cổ đeo cườm vàng. Búi
tóc gài trâm đồng trâm bạc, bước đi của nàng mềm mại như voi dạo chơi”
“Người
đẹp vì lụa”, xống áo đẹp càng tôn nét vẻ con người. Vẻ đẹp đây vừa lí tưởng
vừa sinh động, nổi bật, sáng chói, tỏa sức sống thu hút người khác chiêm
ngưỡng và khát khao.
Một chi tiết thôi cũng đủ thể hiện
sức hấp dẫn của nàng Hơ-bia Bơ-lao (trong trường ca Xing Nhã): “Búi tóc đen láy của nàng đẹp hơn trứng
chim kơ-đơng rơi trên cái lưng cong lá mía”. Liên tưởng so sánh cực kì sinh
động, diễn tả vẻ đẹp một cách độc đáo, xuất thần. Còn nàng Hơ-bia Sun (trong
trường ca Đăm Đi): “Nàng nằm ngủ như một
chiếc nhẫn bạc rơi giữa chiếu hoa”. Sang quý, nhẹ nhàng, êm ái biết bao,
thanh nhã như một bức tranh tĩnh vật. Vẻ đẹp của Hơ-bia Sun cũng làm cho Xing
Mơ-nga thăng hoa, từ chỗ chỉ biết “ngửi hơi” đến chỗ cảm nhận được hương ngọt: “Ơ em Hơ-bia Sun, ngửa mặt lên cho anh xem,
nghiêng má cho anh hôn. Anh hôn bắp vế thấy mùi cua, hôn ở bắp đùi thấy mùi cau
trầu. Anh hôn dưới cằm mới thấy mùi mật ong trên cây”.
“Học
trò trong Quảng ra thi- Thấy cô gái Huế chân đi không rời”. Cô gái Huế thế
nào mà làm khớp chân những chàng trai Quảng? Không rõ, cứ nghĩ cô gái Huế duyên
dáng là được. Nhưng duyên chỗ nào? Không rõ, tùy người nhìn cảm nhận lấy. Phải
chăng đây là sức tỏa của cái duyên bị lễ giáo nén, sức hút của nét duyên thầm.
Hèn chi người ta thường bảo gái Huế kín đáo nhưng mà gợi cảm.
Trở lại trường ca Tây Nguyên. Sắc
đẹp của các cô “gái góa”(gái tơ chưa chồng) níu giữ làm cho Xing Mơ-nga mê mẩn
đi lạc đoàn:
“Cô
gái vùng dậy, lấy váy thêu hoa có tết tua mặc vào. Nàng chải đầu, tóc đen như
con rắn than, tóc dài chạm đến nhượng chân. Nàng búi tóc tròn hơn trứng chim
rừng, búi tóc nhỏ nàng cài trâm đồng, búi tóc to cài trâm bạc, lấp lánh tai đeo
hoa ngà voi, cổ đeo chuỗi cườm. Tiếng nói cười trong trẻo như hoa nở ban mai.
Thân hình nàng tròn trĩnh như vầng trăng mới mọc. Chân nàng bước đi nhẹ nhàng,
xinh đẹp làm sao.”
Các chi tiết đều tinh khôi, sinh động như
đang diễn ra trước mắt. Các vẻ đẹp được lựa chọn, quan sát và mô tả ở nhiều
phương vị chứ không phải chỉ có chính diện.
Có thể nói trong trường ca Tây Nguyên thì
người đẹp Hơ Nhí (vợ Đam San trong trường ca Đam San) là được miêu tả kĩ nhất:
“Tay
trái nàng đeo một xuyến vàng, tay phải đeo một xuyến kép, thân mình nàng óng
ánh như một miếng thép trên cái khiên. Tóc nàng bới thấp xuống gáy theo kiểu
người Mơ-nông. Nửa mái tóc trên cột một sợi dây theo kiểu người Ê-đê. Một làn
tóc bay phất phơ như đuôi phượng. Hơ Nhí đi lại rất yểu điệu. Tóc đều và chải
kĩ, búi tóc trơn láng to hơn núp chiêng. Chiếc váy mỗi bước đi phồng lên như gà
mái xù lông để giữ con. Mỗi bước nàng đi
nghe như tiếng chim mơ-lang vỗ cánh bay. Mỗi bước đi váy tung gió làm cho trấu
cám bay lên.”
Người đẹp hiện ra rạng rỡ, phong phú, tỏa
sang màu sắc và đường nét, không phải khi ngồi trang điểm mà trong sinh hoạt tự
nhiên bình thường.
“Cái
váy ấy đen như mây, đen như hoa hơ-bê, lóng lánh như một luồng ánh sáng, chói
lọi như một chớp lòa. Dân làng loáng cả mắt. Búi tóc vấn chặt như hoa kơ-nang.
Nàng vấn tóc lên hơi cao. Một mái tóc thoát ra ngoài thả xuống đến vai. Tóc
nàng dài đến nỗi thả ra thì xuống tận đất như một thác nước và che bóng rợp như
một cây kơ-nia. Một cây trâm bạc cắm dọc, một cây trâm bạc cắm ngang giữ cho
búi tóc đứng im, gió bão cũng không chuyển. Nàng đủng đỉnh, thân mình uyển
chuyển như cành cây bơ lô sai quả, mềm dẻo như những cành trên đỉnh cây, gió
đưa đi đưa lại. Váy nàng dài đến nổi thân nàng bước đã xa mà váy còn mãi đàng
sau. Nàng đi đứng rất duyên dáng, ngực nhô ra đằng trước, bàn chân nàng bỏ
xuống đất thì cũng vừa lúc bước chân kia dở lên, ai cũng phải khen đẹp. nàng đi
như chim phương bay,như chim diều hâu lượn trên không, như nước chảy dưới suối.
Lúc nàng dừng lại hay ngồi xuống thì chẳng ai duyên dáng được như thế. Tiếng
nàng thánh thót đến tai ta rồi người nàng mới bước tới.”
Ở đây, là vợ Đam San, một tù trưởng hùng
mạnh, người đẹp Hơ Nhí xuất hiện trước đám đông khác chi một mệnh phụ đường
đường, một nữ chủ của núi rừng. Bút pháp khoa đại như nghi vệ để đón rước cung
nghinh người đẹp. Vẻ đẹp được quan sát miêu tả sống động, toát hồn lên từ những
chi tiết làm cho mọi người ngất ngây.
Chính những nhân vật (hóa thân của tác
giả) trong trường ca đã làm một cuộc thẩm định. Hơ Bhí (cũng là vợ Đam San)
khen Hơ nhí đẹp bằng “hai vườn hoa quả”-
dùng cái nhiều, cái to lớn có tính số lượng để đánh giá, “đo” phẩm chất. Đẹp
thế nhưng khi so với những người đẹp khác thì Đam San thấy Hơ Âng (chị của Đam
San) đẹp hơn Hơ Nhí chừng “ba ngón tay”.
So với Hơ Bhí (em Hơ Nhí, vợ Đam San) với Hơ Âng thì thấy Hơ Bhí đẹp hơn chừng “ba ngón tay”. So Hơ Bhí với Hơ Li
(người yêu của Đam San) thì thấy Hơ Li đẹp hơn “ba ngón tay”- dùng cái nhỏ, ít để so sánh mức xấp xỉ, chênh lệch
không nhiều, lấy thô vụng để biểu đạt sự tinh vi. Tưởng tượng, miêu tả sắc đẹp
thì bay bổng nhưng thẩm định nhiều ít, hơn kém thì vụng về, thô sơ và cũng
chính đó là nét hồn nhiên của “thời ấu
thơ” nhân loại.
Có hai người đẹp là Hơ Nhí và Hơ Bhí làm
vợ nhưng Đam San vẫn chưa thỏa mãn khát khao sắc đẹp. Sống với hai nàng một
thời gian, Đam San quyết đi bắt nữ thần Mặt Trời về làm vợ lẽ. Nhan sắc nữ
thần Mặt Trời thế nào?
“Nữ
thần Mặt Trời thay một cái váy mới. Thấy váy đó chưa đẹp lại thay cái váy khác
đẹp hơn. Váy nành nhấp nhánh như tia chớp sáng. Tóc nàng chảy bóng che xuống
hai tai. Nàng đi khỏi buồng và tới đâu thì chỗ ấy sáng lên. Dáng nàng đi như
chim diều bay, như chim phương hoàng liệng, như nước chảy êm đềm. Lúc dừng
lại, ngồi hay đứng, cũng đẹp không ai so tầy. Tiếng nàng nghe rõ mặc dù người
chưa thấy. Cổ nàng đẹp như cổ con công.
Nàng là con của Trời và Đất”.
Và rồi lời cầu hôn của Đam San bị nữ thần
Mặt trời từ chối, thất vọng, chàng trở về và bị lún ngập trong rừng U Minh Sun
Y Rít.
Trong trường ca Tây Nguyên, người đẹp
được miêu tả cao lộng, sáng chói rực rỡ vừa gợi cảm, hấp dẫn, nồng ấm, thân thuộc.
Người đẹp là kết tinh, là biểu trưng sức sống của núi rừng, chim thú, hoa
cỏ…Tất cả tinh anh hòa quyện và tỏa sáng nơi người sơn nữ.
Người đẹp là hoa của đất trời, là nguồn
gợi cảm cuộc sống và văn chương. Hãy chiêm ngưỡng, ngây ngất, ngợi ca; bao
nhiêu người đẹp là bấy nhiêu kì công của tạo hóa.
Facebook- Lua Hai, Quang Lexuan and 11 others
Trả lờiXóa1 share
Thu Hương Mình thì thích dạng văn bình luận như thế! Còn bọn trẻ bây giờ không rõ thích văn kiểu gì!
Lâm Hồng Dương Nên hạn định Văn chương dân gian VN
Trieu Hoang Lâu rồi mới thấy một bài viết"đứng đắn" kiểu này , chán cái anh chàng BNT ! Ha ha ha...
Lê Hương Phụng Hôm nay là ngày valungtung nên thầy mới có một bài viết hay, mà "ý tại ngôn ngoại" luôn phải không Thầy?