Biên soạn: TIỂU HÙNG TINH
Ấn
hổ: Ấn của võ tướng. “Ấn hổ xa băng miến Bắc khuyết, Cờ chiên an
dẹp mé Nam
Minh” (Cảm hoài- Phan Văn Trị).
Bán
hùm buôn sói: Chê kẻ quen
làm việc dữ ác.
Bảng
hổ đề danh: Bảng có vẽ
hình cọp ghi tên những người đỗ cử nhân ngày xưa (Bảng tiến sĩ vẽ rồng, bảng tú
tài vẽ hoa mai).
Bạo
hổ: Tay
không bắt cọp, chỉ sự liều lĩnh. “Bạo hổ
bằng hà, tử nhi vô hối giả, ngô bất dữ dã” (Người tay không mà bắt cọp,
chân không mà dám qua sông, dù chết cũng không hối hận thì ta không cùng làm
việc với người đó) (Luận ngữ).
Bộ
hổ: Bắt cọp. “Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này
dốc ra tay bộ hổ”(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc- Nguyễn Đình Chiểu).
Cáo
giả (mượn) oai hùm (Hồ giả hổ uy):
Ngụ ngôn: Cáo khoe với cọp rằng các loài thú đều sợ mình, cọp không tin, cáo
liền đi trước bảo cọp theo sau để kiểm chứng. Muôn vật thấy cọp thì bỏ chạy còn
cọp cứ tưởng rằng do oai của cáo. Dựa hơi hùm vểnh râu cáo: Ba thứ cắc
ké dựa hơi ông lớn rồi câng câng cái bản mặt.
Châm
môi cọp: Điểm mắt rồng,
châm môi cọp. Tích: Tôn Tư Mao là thầy thuốc giỏi, có con rồng đau mắt đến xin
chữa,có con cọp nuốt phải cây kim thoa cũng đến cầu rút hộ. “Tổ xưa thuốc điểm mắt rồng, Thuốc châm môi cọp khổ công dường nào” (Ngư
tiều y thuật vấn đáp- Nguyễn Đình Chiểu).
Chó
con chưa biết sợ cọp: Ý
mỉa mai còn non nớt, chưa có kinh nghiệm nên chưa biết sợ, cứ đâm đầu vào chỗ
nguy hiểm.
Chúa
cọp: Trùm của những kẻ
ác.
Chuồng cọp: Hầm giam chật , tối, nhằm trừng phạt
những tù nhân chống đối.
Cọp
ba chân: Cọp vồ được mồi
thường dùng một chân cắp lên mà chạy, người ta soi theo, chỉ thấy ba dấu chân
nên lầm tưởng.
Cọp
beo (Hùm beo, Tì hổ):
Loài dữ ác, thế mạnh mẽ. “Tam quân tì hổ
khí thôn Ngưu” (ba quân khí mạnh nuốt sao Ngưu) (Thuật hoài- Phạm Ngũ Lão). “Vạn
giáp diệu sương tì hổ túc, Thiên sưu bố trận quán nga hành” (Muôn giáp khoe
oai tì hổ dữ, Nghìn thuyền bày trận quán nga nhanh) (Quan (coi) duyệt thủy trận- Nguyễn Trãi).
Cọp
cái: Ám chỉ người đàn bà
hung dữ.
Cọp
giữa chợ: Thập Bì hỏi
Ngụy vương rằng có một người nói cọp giữa chợ, vua tin không? Ngụy vương bảo
rằng không. Hai người nói vua cũng không tin. Ba người nói thì vua tin. Không
có nhưng cứ đồn đãi cũng thành chuyện. Tin vịt mà nhiều người bàn cũng làm cho
lắm người tưởng thật. Lối tuyên truyền của Hít-le, điều giả dối nhưng cứ nói đi
nói lại mãi rồi người ta cũng tin thật.
Cọp
sổ chuồng: Kẻ ác không
còn bị kiềm tỏa.
Cọp
tha ma bắt: Lời nguyền
rủa. Thoát chết kiểu này cũng bị chết kiểu khác.
Cọp
thành tinh: Chỉ những
con cọp cực kì khôn, khó đánh bẫy, hành tung vượt khỏi dự kiến của con người.
Dữ
như hổ đói, Dữ như cọp (hùm).
Dương
chất hổ bì: Chất dê da
cọp. Bộ dạng hung dữ nhưng thâm tâm nhút nhát (= Hình ma tướng cóc).
Dưỡng
hổ di họa: Dung dưỡng kẻ
ác để rước lấy họa về sau.
Đắc
ý miêu nhi cường tự hổ:
Đắc ý mèo con cũng dữ như cọp (= Tiểu nhân đắc ý, chốt qua sông).
Điệu hổ li sơn: Dụ cọp ra khỏi núi, một trong ba mươi sáu kế (tam thập lục kế). Nhử kẻ địch ra khỏi nơi phòng thủ để dễ tiêu diệt.
Gươm
hùm treo mộ: Quý Trát có
thanh gươm quý, vua nước Từ muốn xin, Quý Trát biết ý, định đi sứ xong sẽ tặng.
Khi trở lại thì vua Từ đã chết, Quý Trát đem gươm treo lên mộ. “Trăm
năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ” (Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc- Nguyễn Đình Chiểu).
Hà
chính mãnh ư hổ (Khổng
Tử): Chính sự hà khắc còn dữ hơn cọp. Một người đàn bà khóc nói với Khổng Tử
rằng cha, chồng và con mình đều bị cọp ăn thịt. Hỏi sao không đi nơi khác mà
sống? Người đàn bà thưa rằng: Tuy vậy, chính sách các quan trên ở đây không đến
nỗi hà khắc tàn bạo như nơi khác. Khổng
Tử nghe, than: Hà chính mãnh ư hổ.
Hai
cọp tranh nhau :
Các thế lực mạnh giành giật, đối kháng,
tiêu diệt nhau.Tọa sơn quan hổ đấu: Ngồi trên núi xem cọp đánh nhau (con này chết
thì con kia cũng bị thương nặng) kiểu Trai cò tranh nhau ngư ông đắc lợi- cơ
hội chủ nghĩa.
Hang
hùm (Hổ huyệt): Nơi nguy
hiểm. “Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử” (Không
vào hang cọp sao bắt được cọp con” (Lời Ban Siêu đời Hán).
Hàng
long phục hổ (Giáng hổ):
Tài phép cao, chế ngự được loài dữ.”Phục
cọp hàng rồng sao phép diệu”(Du Nam Hoa tự- Nguyễn Trãi). Rồng chầu hổ phục: Nơi các đền miếu thường
tạc cảnh rồng chầu hổ phục để đề cao tài
phép, uy lực của thánh thần. “Rừng thiền
định hùm nằm chực” (Quốc âm thi tập- Nguyễn Trãi).
Hành
như hổ bộ: Đi như cọp
bước (êm, vững).
Họa
hổ họa bì nan họa cốt, Tri nhân tri diện bất tri tâm: “Vẽ hổ vẽ da khó vẽ xương, Biết người biết
mặt biết lòng làm sao”(Cổ thi).
Họa
hổ bất thành hổ: Vẽ cọp
không thành cọp. Làm việc hệ trọng không xong mà gặp nguy hiểm “E khi họa hổ bất thành, Khi không mình lại
xô mình xuống hang” (Lục Vân Tiên- Nguyễn Đình Chiểu).
Họa
hổ bất thành phản loại khuyển
(Vẽ cọp ra chó): Những kẻ năng lực không ra gì nhưng muốn làm chuyện lớn lao
đôi khi thành trò hề.
Hổ
cốt: Xương cọp. Cao hổ cốt: Cao nấu từ xương cọp dùng
trị bệnh và bồi dưỡng sức khỏe.
Hổ
cứ: Dáng cọp ngồi. Long
bàn hổ cứ: Rồng cuộn hổ ngồi. Thế đất đế vương. Lý Thái Tổ đã đề cập đến Thăng
Long trong Chiếu dời đô: “Huống chi Đại
la là đô cũ của Cao vương, ở chính giữa bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn
hổ ngồi, vị trí thích trung với bốn phương đông tây nam bắc, tiện cho chiếu
hướng thuận nghịch của núi sông… Ngắm khắp nước Việt ta, duy đó là thắng địa,
thật là nơi then chốt của bốn phương hội lại, và cũng là nơi đô thành bậc nhất
của đế vương muôn đời.”
Hổ
đập đuôi: Nghe đâu khi vồ
mồi, hổ đập đuôi bên phải thì nhảy về bên trái và ngược lại.
Hổ
đầu đao: Khung đao chém
tử tội có khắc chạm hình cọp (thường dùng cho quan), phân biệt với long đầu đao
(chạm hình rồng dành cho vương công) và cẩu đầu đao (chạm hình chó) dành cho
dân giả.
Hổ
đói (cơ hổ): “Cơ hổ giáp lộ đề” (Hổ đói gầm hai bên
đường) (Cảm hoài- Nguyễn Thông). Tình
cảnh hết sức nguy hiểm, cái chết kề bên.
Hổ
khẩu: Miệng cọp- chỗ
nguy hiểm. Khi Pháp xâm lược, sĩ phu và nhân dân nổi dậy đánh, Tôn Thọ Tường ra
làm quan cho Pháp lại còn lên tiếng dạy đời: “Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc. Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay”.
Phan Văn Trị đã đập lại luận điểm này: “Chớ
mượn hơi hùm rung nhát khỉ, Lòng ta sắt đá há lung lay”. Miệng hùm nọc rắn: Loại độc địa hiểm
ác. “Mãnh hổ khẩu trung kiếm, Trường xà
vĩ thượng châm, Lưỡng ban do vi độc, Tối độc phụ nhân tâm” (Gươm trong
miệng hổ dữ, Kim trên môi rắn dài, Cả hai thứ còn chưa độc, Độc hại nhất là
bụng dạ đàn bà) (Cổ thi).
Hổ
khiếu phong sinh: Cọp
gầm gió nổi. “Hổ khiếu phong sinh, Long
đăng vân khởi, Anh hiền phấn phát” (Cọp gầm gió nổi, Rồng lên mây dậy,
Người anh tuấn hiền tài đua nhau tiến lên) (Bắc
sử). Vân tùng long, phong tùng hổ:
mây theo rồng, gió theo cọp. Hổ sinh phong: Cọp sinh gió. “Đại nhiệm hữu quy thiên khải thánh, Xương
kì nhất ngộ hổ sinh phong” (Trao gánh non sông trời báo triệu, Gặp thời mây
gió cọp sinh vây) (Đề gươm- Nguyễn
Trãi)
Hổ
lạc bình nguyên bị khuyển khi:
Hổ lạc đất bằng chó cũng khinh. Cảnh anh hùng thất thế. “Đồng rộng hùm sa lũ chó vây” (Cảm hoài- Phan Văn Trị). “Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn” (Kiều).
Hổ
lang (Sài hổ): Hùm sói.
Hổ
li sơn hổ bại, tăng li chúng tăng tàn:
Châm ngôn nhà Phật. Sư lìa chúng (xa rời tín đồ) cũng như cọp lìa núi, sẽ thất
bại.
Hổ
phù: Vật làm bằng chứng
khi điều binh khiển tướng xưa. Vật có
hình con hổ, làm bằng đồng, phân làm hai nửa, một nửa để ở triều đình, một nửa
giao cho tướng cầm quân. Chạm hổ phù:
Chạm hình mặt hổ.
Hổ
phụ sinh hổ tử: Cha cọp
sinh con cọp. Lời khen nhà có con cái tài giỏi nối nghiệp cha ông.
Hổ
quyền: Thế võ cọp.
Hổ
thao: Một phép thao
luyện trong lục thao (văn thao, vũ thao,long thao, hổ thao, báo thao, khuyển
thao). “Man khê lộ viễn vu loan ngự, Ngọc
trướng mưu thần xuất hổ thao” (Đường xa khe hiểm phiền loan giá, Ngọc
trướng mưu thần trổ hổ thao) (Mừng thắng
trận- Nguyễn Trãi).
Hổ
thị đam đam: Cọp nhìn
chằm chằm. Hư truyền rằng cọp thấy người thì thôi miên, nạn nhân tự tới nộp
mạng cho cọp.
Hổ
trường: Trường đấu.
Hổ
trướng (Màn hùm): Trướng
có vẽ, thêu hình cọp hoặc treo bộ da cọp, nơi bộ chỉ huy của tướng soái. “Trướng hùm mở giữa trung quân” (Kiều).
“Màn mưa trướng tuyết xông pha, Nghĩ thân lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài” (Nguyên
ngữ trong Chinh phụ ngâm: Tuyết rét chàng chừ nơi trướng hổ, Mưa lạnh chàng chừ
chỗ màn lang). Hổ trướng khu cơ: Tên
bộ binh pháp của Đào Duy Từ.
Hổ
tướng: Tướng mạnh, dũng
cảm.
Hỗ
vẫy đuôi (như chó): Kẻ
ác khiếp sợ trở nên hèn hạ. “Tướng giặc
bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng
trời ta mở đường hiếu sinh” (Tặc thủ thành cầm, bi kí trạo nga hồ khất lân
chi vĩ, Thần vũ bất sát dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm) (Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi).
Hổ
vồ: Thế bất ngờ chụp
xuống làm đối phương hết đường chống cự.
Hơi
cọp, Mùi cọp: Mùi hăng
hắc khen khét toát ra từ cọp, các loài khác từ xa đã đánh hơi thấy và bỏ trốn. “Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ” (Phan
Văn Trị).
Hùm
chết để da, người ta chết để tiếng (Hổ tử lưu bì, nhân tử lưu danh): Bia miệng.
Hùm
dữ không ăn thịt con
(huống chi là người).
Hùm
mất hươu hơn mèo mất thịt:
Ở địa vị càng cao, mất quyền lợi thì càng lồng lộn điên tiết.
Hùm
thêm cánh (Hổ dực): Kẻ
ác có thêm lợi thế. “Trời sinh hùm chẳng
có vây, Hùm mà thêm cánh hùm bay lên trời” (Ca dao).
Hùm
xám: Kẻ hung ác làm chúa
một vùng.
Hùng
hổ: Hung dữ, mạnh mẽ, có
ý đe dọa. Hùng hùng hổ hổ.
Kễnh: Cọp (cách gọi ở một số địa phương miền
Bắc), Khái: Cọp (cách gọi ở vùng Bắc Quảng Bình,
Nghệ Tĩnh).
Long
hổ: Điệu nhạc tượng
trưng cho sức mạnh trong ca Huế (Lưu thủy, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ…)
Lốt
cọp: Người đi săn thường
khoác lốt cọp để tiếp cận cọp. Khỉ lốt
hùm: Kẻ không ra gì nhưng dựa hơi dựa bóng kẻ mạnh để tác oai tác quái.
Ma
cọp (Ma trành): Hư
truyền rằng người bị cọp ăn thịt do không còn chỗ trú ngụ nên phải bám víu vào
thân cọp. Cọp đi tới đâu đều có cô hồn trước cô hồn sau cô hồn hai bên bảo vệ, mách lối. Hại càng
nhiều người thì cọp càng có nhiều cô hồn bảo vệ. Lỡ cọp bị chết thì các cô hồn
khóc dậy rừng vì mất nơi nương tựa. Vị
hổ tác trành: Làm ma giúp cọp. Chuyện xưa: Cọp đã ăn thịt người nhưng vẫn
chưa buông tha linh hồn, còn buộc linh hồ người bị hại dẫn đi bắt người khác để
“thế chân” mới được phóng thích. Linh hồ người bị hại muốn giải thoát sớm nên
càng tích cực dẫn cọp đi bắt người. Tìm được thì linh hồn người ấy bay lên
trước, lột hết áo quần nạn nhân cho cọp ăn. Từ nạn nhân kẻ ác trở thành tay sai
cho kẻ ác, bi đát thế!
Mãnh
hổ nan địch quần hồ: Cọp
mạnh cũng không thể chống nổi bầy cáo. Nghịch nghĩa với Quần hồ bất như độc hổ: Bầy cáo không bằng một mình con hổ, đông
hèn yếu không bằng ít mà mạnh (= Quý hồ tinh bất quý hồ đa). “Mãnh hổ nhất bôi sơn trung túy, Giao long
lưỡng trận hải để miên” (Cọp mạnh một li say khướt trong rừng, Giao long
hai chén ngủ mê đáy biển): ý nói rượu quá mạnh.
Mèo
tha miếng thịt thì đòi, kễnh (cọp) tha con lợn mắt coi trừng trừng: Chỉ quen bắt nạt kẻ yếu, không dám làm
gì kẻ mạnh.= Mềm nắm rắn buông.
Nam
thực như hổ, nữ thực như miêu:
Nam
ăn như cọp (ăn mạnh, nhiều – tướng oai) nữ thực như miêu (ăn nhỏ nhẻ như mèo- dáng quí phái).
Nắm
đuôi cọp: Làm việc dại
dột, nguy hiểm = Xỉa răng cọp.
Nghè
hóa hổ: Chuyện xưa có tay
đỗ tiến sĩ, vinh quy. Trên đường về, y nghĩ toàn chuyện ác nào chiếm đoạt nhà
người ta, nào bỏ vợ, trả thù người này người khác…Khi dừng lại ven rừng, xuống
suối tắm thì thấy mình mọc đầy lông lá, da nổi vằn vện, hóa hổ rồi chạy vào rừng.
Ngoạ
hổ: Cọp nằm. Đổng Tuyên
đời Hán làm quan Lạc Dương rất uy nghiêm, được dân kinh sư kính sợ thường gọi
là Ngọa Hổ. “Nỡ nhốt rừng xanh tài Ngọa
Hổ, Muốn tung biển thắm khí Nguyên Long” (Tiễn Chu
Thiết Nhai- Nguyễn Quang Bích).
Ngồi
lưng cọp: Thế cưỡi hổ,
tiến thoái lưỡng nguy.
“Ngưu
hổ trùng cơ tín chỉ hồi”: Tấm giấy liệu việc nói bóng về con trâu con cọp
đã gửi về (Thơ Nguyễn Quan Bích). Trong giấy có câu: “Hoàng ngưu (Trâu vàng- chỉ nhà Thanh) dốc lực, bạch hổ (cọp trắng- chỉ thực dân Pháp) giương uy”, ý chỉ hai thề lực Tàu và Pháp đang tranh chấp.
Người
hóa hổ: Hư truyền rằng
thái sư Lê Văn Thịnh (đời Lý Nhân Tông) từ nhỏ đã biết hóa hổ. Lớn lên, đỗ đầu
kì Minh kinh bác học, làm quan đến thái sư. Bấy giờ, vua đi chơi hồ Dâm Đàm (hồ
Tây) bỗng nổi sương mù và thấy có chiếc thuyền lao tới. Vua cầm giáo đâm thì
sương tan, hiện ra trong thuyền một con hổ. Ông chài Mục Thận quăng lưới chụp
lấy té ra thái sư Thịnh. Vua hô bắt Thịnh, đưa đi an trí.
Nợ
mười hùm chưa đủ, đâm một thỏ thấm chi:
Thù sâu đậm, trả một phần chưa hả dạ.
Nuôi
sâu cọp: Hư truyền rằng
người ta lấy râu cọp nuôi vào nước trong các bẹ của búp măng tre, một thời
gian, từ râu đó sẽ nở ra sâu và nuôi các con sâu ấy lấy phân làm thuốc độc. Do
vậy, khi săn được cọp, người ta đốt bỏ ngay bộ râu để tránh hậu họa.
Ông
cọp, ông hổ, ông ba mươi, sơn quân, sơn thần, chúa sơn lâm, chúa tể rừng xanh…:Cách gọi kiêng sợ đối với cọp. Người
miền Trung đi rừng thường kính cẩn gọi cọp bằng ông, gọi voi là mệ (bà). “Trở về chưa kịp đến nhà, Thấy hai ông cọp
chạy ra đón đường” (Lục Vân Tiên- Nguyễn Đình Chiểu).
Râu
hùm: “Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu, Đến khi hùm dậy
đầu lâu chẳng còn”: Đừng trêu vào kẻ mạnh, kẻ ác mà mang họa. “Râu hùm hàm én mày ngài” (Kiều): vẻ mặt
oai vệ của Từ Hải.
Rừng
nào cọp nấy: Tư tưởng cục
bộ địa phương, “thuyết tại chỗ”.
Sợ
như sợ cọp.
Thả
cọp về rừng: Buông tha
kẻ ác.
Tróc
hổ dị, phóng hổ nan: Bắt
hổ dễ, thả hổ khó. Thời Trần Minh Tông, Trần Quốc Chẩn là cha hoàng hậu bị vu
là âm mưu làm phản, vua sai bắt giam ở chùa Tư Phúc. Sau đó đem chuyện hỏi Trần
Khắc Chung, Chung tâu rằng: “Tróc hổ dị
phóng hổ nan”. Vua liền giam đói Quốc Chẩn, bắt phải tự tử.
Tửu
nhập tâm như hổ nhập lâm:
Rượu vào thả sức tác quái.
Võ
Tòng đả hổ: Sự tích Võ
Tòng (nhân vật trong truyện Thủy Hử, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc) tay
không đánh chết cọp.
Yêu
hổ: Trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ có chuyện rằng ở làng Ngọc Cục (huyện Cẩm
Bình, Hải Hưng) xưa có thờ yêu hổ. Mỗi năm, người chủ tế trong làng phải rình
bắt một người đem về nhốt lại, mài da gót chân cho mỏng để nạn nhân không thể chạy trốn. Khi lễ thần thì
giết, thái nhỏ thịt trộn lẫn vào thịt trâu thịt heo. Cúng xong, chia phần ăn,
người nào gắp được miếng thịt người thì hí hửng khoe ầm lên và tin rằng năm ấy
họ sẽ gặp hên.
1998
Nguyen Phuc Vinh Ba' blog15:47 3 tháng 2, 2022
Trả lờiXóaHay lắm.
Facebook, 5-2-22,20L, 7bl