TIỂU HÙNG TINH
Trong bài Thương vợ, Tú Xương viết: “Quanh
năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng”. Gọi mom sông, không gọi bãi sông, bến sông
vì thất luật vừa không đúng thực tế, vì bến
bãi thì mặt đất lài, độ dốc không lớn. Gọi bờ sông thì trung tính quá,
chưa hiện rõ nét đặc sắc, riêng biệt. Mom
sông- cái vần OM
có ý nghĩa của nó. OM
gợi lên đường nét cong, các góc cạnh bị bào mòn.
Đọc câu thơ trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan: “Lom khom dưới núi tiều vài chú”. Lom khom- dáng người đây bị cong cúi
xuống. Nói nhà vòm là nhà có mái cong um xuống. Nói móm, sọm , lỏm đều gọi lên hình ảnh
cong do đường nét khum lại hoặc oằn
xuống. Nam Cao tả nhân vật có tính tăng
cấp: “Vì thế, nó gầy hơn, nó còm hơn, nó
đét lại”. Gầy chỉ gợi cái ốm còn còm
tức là gầy ốm đến mức cong xuống (Ở khu IV người ta còn gọi là ròm, rom; Nam
bộ thì gọi là nhom, ốm nhom, còm nhom,
cũng đều OM
cả). Cũng Bà Huyện Thanh Quan, trong một bài thơ khác đã viết: “Xanh
om cổ thụ tròn xoe tán, Trắng xóa trường giang phẳng lặng tờ”. Xanh om vừa chỉ màu sắc vừa gợi hình:
Tán lá cổ thụ màu xanh dáng cong. Bà Hồ Xuân Hương tinh nghịch vừa sắc sảo khi khai thác tính chất gợi hình
của vần OM:
“Trời đất sinh ra đá một chòm, Nứt làm
hai mảnh hỏm hòm hom”. Hỏm hòm hom-
vần OM
láy ba, các góc cạnh dẫu của đá cũng bị bào mòn đến mức hoẳm vào, cong co lại.
Trong bài Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm viết: “Mẹ già nua còm cõi gánh hàng
rong”. Còm cõi gợi lên hình ảnh
mẹ già gầy guộc lưng còng vì gánh nặng, chịu thương chịu khó, vừa cảm động vừa
tội nghiệp.
Hiểu nghĩa vần OM mới cảm được cụm từ mom sông, cái phần đất ở bờ nhô ra phía lòng sông, cái doi đất bị bào
mòn cong lại, hẳm sâu.
Bà Tú Xương không phải ngồi ở cửa hàng
cửa hiệu để buôn bán mà buôn bán chỗ trên doi dưới nước, chơi vơi không chút an
toàn- ở mom sông. Trong cảnh ấy, bà “Nuôi đủ năm con với một chồng”, tần tảo
đáng thương và đáng kính biết bao.
Và cái vần OM gợi hình, tạo ra một trường nghĩa cần được lưu ý
khi sử dụng biết bao!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét