NGUYỄN VĂN
HÙNG
Trường
CĐSP Sóc Trăng
butnguyentu.blogspot.com
Bài đã đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học Công nghệ Sóc Trăng.
Bài đã đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học Công nghệ Sóc Trăng.
1. Giản
lược trong ngôn ngữ là
rút gọn, giảm thiểu lượng ngôn từ, giúp việc diễn đạt gọn lại nhưng vẫn giữ
được đầy đủ ý nghĩa, làm cho người nghe vẫn hiểu đúng lời của người nói. Giản
lược là một nhu cầu trong diễn đạt và giao tiếp, có những hình thức mang tính
nguyên tắc mà khi nói năng phải lưu ý.
2.
Những hình thức giản lược trong tiếng
Việt
2.1.
Giản lược trong nói năng
2.1.1. Giản lược từ
-
Người
ta phải giảm bớt một số từ trong cụm từ (vốn cụ thể hơn) để hình thành
được những từ mới mang nghĩa khái quát
hơn. Nói xe chạy bằng hơi rườm quá, phải nói là xe hơi, cụm từ chạy bằng bị lược bỏ, được hiểu ngầm. Không ai nói xe hai bánh để chở, người trước lái, người
sau ôm người trước, người ta phải giản lược bằng cách chọn lại các tiếng
điển hình, hình thành và chỉ cần dùng một từ hai tiếng xe ôm. Một số cụm tù được rút gọn tối đa: Bên ấy => bển, ông ấy =>ổng, bà ấy =>
bả… Đây là cách giản
lược để tạo thành từ.
-
Một
số danh từ riêng cũng bị giản lược khi nói năng. Italia (Ý Đại Lợi) =>
Ý,
England =>
Anh, Hungary =>
Hung, Tiệp Khắc =>
Tiệp, Malaisia (Mã Lai Á) =>
Mã Lai, Indonesia => In Đô, Ấn Độ =>
Ấn…
-
Tên
một số cơ quan đơn vị (dưới dạng thức một cụm từ nhưng chỉ được hiểu, có ý
nghĩa như một danh từ riêng) cũng bị giản
lược khi nói năng với điều kiện không bị nhầm lẫn với cơ quan khác. Bộ Giáo dục và Đào tạo =>
Bộ Giáo dục Đào tạo (từ
và bị lược), Ủy ban Nhân dân tỉnh =>
Ủy ban tỉnh…
-
Một
số từ thường dùng cũng được rút gọn: kilôgam =>
kí lô =>
kí
Giản lược từ là một phương thức nói năng
bình thường, nó phải đáp ứng điều kiện là không gây sự nhầm lẫn về mặt sự vật,
trạng thái, tính chất hoặc hoạt động, người nghe phải hiểu ngay ý tưởng của
người nói và chấp nhận một cách bình thường.
2.1.2.
Giản
lược ngữ (cụm từ)
Mẹ
của tôi, chỉ cần nói mẹ tôi là người ta hiểu. Tiếng Việt
không có những từ sở hữu gắn với ngôi như my,
yours, his, her, its trong tiếng Anh. Trong tiếng Việt cũng không có sở hữu
cách (’s)để giúp diễn đạt một cách
giản lược. Giản lược ở cụm từ được ngầm hiếu nhưng không được hiểu nhầm. Xe tôi phải được hiểu xe (của) tôi. Của đây không được nhầm thành là,
và, cùng…
2.1.3.
Giản
lược câu
-
Câu đặc biệt (câu đơn đặc biệt) được sử dụng trong một
ngữ cảnh nhất định, câu
được rút gọn lại thành một thành phần,
thành phần còn lại không rõ thuộc chủ ngữ hay vị ngữ.
Một
người nhìn ra bên ngoài và hô lên: Mưa!
Trong trường hợp này có thể hiểu: Mưa tới kìa! (Mưa làm chủ ngữ trong câu). Cũng có thể hiểu: Trời mưa (mưa làm vị ngữ). Vấn đề chính ở đây không cần rõ thành phần cấu
tạo ngữ pháp mà chỉ cần phần nghĩa là thông báo sự xuất hiện của mưa.
- Giản lược câu ghép thành câu đơn để
tránh việc lặp đi lặp lại các thành phần giống nhau.
Tôi ăn, tôi ngủ và tôi làm việc. (A) => Tôi
ăn, ngủ và làm việc. (A’)
Tôi làm việc, anh làm việc và chị làm việc. (B) => Tôi,
anh và chị làm việc. (B’)
Trong trường hợp này, các câu ghép A, B
được chuyển thành các câu đơn A’, B’. Đó là về mặt ngôn ngữ học còn trong Logic
học vẫn xem A, B, A’, B’ đều là các phán đoán phức (do nhiều phán đoán đơn hợp
thành, ở đây các chủ từ hoặc vị từ vẫn tồn tại nhưng bị ẩn đi mà thôi).
- Câu -
Câu giản lược -
câu tối giản.
Câu
giản lược được thực hiện trong điều kiện, một hoàn cảnh nói năng (ngữ cảnh) nhất
định mà người đối thoại chấp nhận, có thể gây nhầm lẫn về thái độ (mặt biểu
thái) chứ không gây sự nhầm lẫn về ý nghĩa (mặt biểu niệm).
Câu hỏi: Anh đã ăn cơm chưa?
Câu trả lời đầy đủ: Tôi đã ăn cơm rồi.
Câu trả lời giản lược: Ăn cơm rồi. (Giản lược chủ ngữ)
Câu trả lời tối giản: Rồi. (Giản lược chủ ngữ và thành phần
chính của vị ngữ)
Có thể giản lược chủ ngữ, giản lược vị
ngữ, giản lược các thành phần chính chỉ cần giữ lại thành phần bổ nghĩa.
- Giản
lược câu bằng cách sử dụng đại từ.
Đại
từ là từ loại dùng để chỉ sự vật, để xưng hô, thay thế cho danh từ, động từ,
tính từ, số từ và cụm từ trong câu theo những hoàn cảnh cụ thể. Để giản lược,
người ta thường dùng phép thế:
“
Bộ mặt tinh thần của mấy thầy giáo, cô giáo trong “Sống mòn”
thật buồn tẻ, thảm hại. Họ sống chen
chúc trong một không khí tù đọng, bụi bặm, ấm mốc.” (Nguyễn Hoàng Khung)- Đại từ họ
thay thế cho các từ thầy giáo, cô giáo.
“Không!...Anh
chỉ là một người khổ sở!...Chính vì em mà anh khổ…Từ bảo thế.” (Nam
Cao) - Đại từ thế thay thế cho một
loạt câu, có thể thay thế cả đoạn, cả phần để tránh tình trạng lặp đi lặp lại
rườm rà mà không có thêm thông tin gì mới.
2.2.
Giản lược trong thơ ca.
Do
yêu cầu về tính hàm súc, ngôn từ thơ ca mang tính chọn lọc cao, ý nghĩa phải
được nén trong một số câu chữ giới hạn để tạo sức lan tỏa mạnh, thơ ca đòi hỏi
tính giản lược cao, vượt ra khỏi cách nói năng bình thường.
Anh
có yêu thì anh nói rằng anh yêu, anh không yêu thì anh nói một điều cho xong- chỉ là cách nói thông tục, rành mạch
nhưng ít biểu cảm. Loại bỏ các đại từ anh thì sẽ có một câu ca dao tuyệt vời: Có yêu thì nói rằng yêu/ Không yêu thì nói
một điều cho xong.
(Ai)
yêu là (người đó sẽ) chết trong lòng một ít vì mấy khi (mình) yêu mà chắc
(chắn) được (người ta) yêu (lại đâu). Nếu
giữ lại các từ trong ngoặc thì ta có một câu nói thông tục nhưng Xuân Diệu lược
bỏ nó để tạo thành một câu thơ hay.
Ngôn ngữ thơ phải gợi, ngôn từ hạn chế nhưng ý nghĩa phong
phú. Giả Đảo đời nhà Đường có viết: “Nhị
cú tam niên đắc/ Ngâm tràn song lệ lưu” (Tạm dịch: Ba năm chỉ được hai câu,
Ngâm nga lã chã giọt châu khôn cầm). Làm thơ khó quá, cứ như phải vắt chữ, vắt cho
nhỏ lại, bắt nó toát ra cái thần, toát ra linh hồn chữ nghĩa.
2.3.
Giản lược trong châm ngôn, trong những lời đúc kết
giúp vào sự cô đúc, gọn lời, dễ ghi nhớ tạo ấn tượng, dễ khắc sâu
(thường gắn kết tạo nên vần vè)
Công, dung, ngôn, hạnh :
tứ đức (đối với phụ nữ):
Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín : ngũ thường
Cần
cù, tiết kiệm, liêm khiết, chính trực : cần, kiệm, liêm, chính.
Phong trào dạy tốt, học tốt : phong trào hai tốt.
Trong
thời bao cấp, tài sản hiếm hoi, ai có được chiếc xe đạp, cái đồng hồ, cái radio
là quý lắm. Thế là khái quát thành tiêu chuẩn 3Đ: đạp, đồng, đài.
3.
Những vấn đề cần lưu ý khi giản lược.
Nhìn chung, giản lược trong ngôn ngữ giao tiếp là một nhu cầu, theo những điều
kiện và có những nguyên tắc nhất định. Giản lược ngôn từ không chỉ tạo ra sự
tiết kiệm trong lời nói mà còn làm cho lời nói chặt chẽ sống động vì gắn liền
với hoàn cảnh cụ thể.
Tuy vậy, cần lưu ý:
-
Trong quá trình vận dụng nếu quá lạm dụng sẽ gây ra phản cảm. Nhiều học sinh
thay vì đọc 32 là “ba bình
phương” thì đọc là “ba bình”,
sinh viên học theo chế độ tín chỉ nếu thi chưa đạt 3 tín chỉ thì bảo là “thiếu ba chỉ”, nói năng kiểu tiếng
lóng! Người ta cũng nói kiểu chập ba: xúc
động đậy, tích cực khổ…Nói năng cà rỡn, lâu lâu pha trò một chút thì được
chứ ăn nói bình thường đều đều kiểu này chắc có vấn đề về tâm thần. Ở bệnh viện
nọ có khoa Tâm thần kinh, nghe thôi đã muốn nhập viện! Thời bao cấp có chuyện Cửa hàng thịt Phụ nữ. Tên cửa hiệu thế
này gây cười vì có thể hiểu là bán thịt phụ nữ hoặc làm thịt phụ nữ. Ghi tắt
mới sinh chuyện chứ ghi hơi rườm: Cửa
hàng thịt do Hội Phụ nữ phụ trách thì chẳng ai thắc mắc. Nói Thưa các thầy cô thì được chứ nói Thưa các thầy cô giáo thì không ổn vì thầy cô giáo là người dạy cô
giáo chứ không phải là cô giáo.
- Nghiên cứu khi đặt tên cơ quan đơn vị :
Tên không quá rườm rà, tránh dùng những từ nối vì khi nói người ta sẽ nói tắt, lược bỏ một phần nhiều
khi làm méo mó. Trước đây có một trường mang tên: Trường Đào tạo và Bồi dưỡng Giáo viên Dân tộc và Vùng sâu tỉnh Hậu
Giang (16 chữ, có lẽ là tên trường dài nhất Việt Nam), người ta chỉ gọi tắt là Trương Vùng sâu, nhiều người chế là Trường đào bồi sâu!
- Cần lưu ý là giản lược luôn gắn với
hoàn cảnh nói năng (ngữ cảnh) cụ thể,
trong hội thoại nếu chỉ để ý mặt biểu niệm của lời nói mà quên đi mặt biểu thái
của nó thì sẽ tạo ra phản cảm. Rườm rà
hay giản lược đều có khả năng biểu thái tốt nếu sử dụng đúng nơi đúng lúc và
ngược lại.
Bạn thân tới nhà mình ăn cơm, nếu nói
năng mời mọc kiểu cách rườm rà quá sẽ giảm đi sự thân tình, nói: A lê, xực! Thô cộc thế lại hay. Nhưng
trong một lễ cưới có quan viên hai họ lại phải nói năng đưa đãi mới hợp chứ nói
năng kiểu đó thì cũng hết nói hết biết và chắc là cũng hết ăn.
Thầy (vai lớn) hỏi trò (vai nhỏ): Em đã làm bài chưa?
Trò đáp: Em đã làm bài rồi. Câu trả lời trung tính, được chấp nhận.
Trò đáp: Làm bài rồi. Hoặc : Rồi.
Câu trả lời giản lược đến mức tối giản, nghĩa rõ ràng nhưng mặt biểu thái gây
phản ứng bất lợi, trả lời bạn thì được nhưng với thầy như vậy là vô lễ.
Trò đáp: Thưa thầy, em đã làm bài rồi ạ. Câu trả lời rườm rà hơn bình thường
nhưng trong ngữ cảnh này lại phù hợp.
- Một đoạn tả gà trong Quốc văn giáo khoa thư: “Ở nhà quê, nhà nào cũng nuôi một đàn gà năm
bảy con. Trong một đàn gà như thế, ít ra cũng có một con gà trống”. Thực là
vừa rườm vừa khô, vô hồn chứ không phải sự giản lược về văn. Nhiều giáo viên
thường than phiền học trò viết thiếu chất văn. Ở nhà trường hiện nay, khâu
luyện văn cho học sinh ít được chú ý do dàn trải, qua loa. Thiết nghĩ cần trở
lại đơn vị là câu văn để tập cho học sinh tiến hành các thao tác giản lược và
mở rộng. Các thao tác này thuần thục là cơ sở cho học sinh hình thành câu văn
để hành văn.
- Ông Thái Bạch trong Giai thoại văn chương Việt Nam kể
chuyện cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa khi đọc bài thơ của một danh sĩ Trung Hoa: “Thanh minh thời tiết vũ phân phân/ Lộ thượng
hành nhân dục đoạn hồn/ Tá vấn tửu gia hà xứ thị / Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa
thôn”. (Tiết Thanh minh trời mưa phùn lất phất/ Người đi trên đường rét
muốn đứt hồn/ Ướm hỏi nhà bán rượu ở đâu/ Em bé mục đồng chỉ ở thôn Hạnh Hoa),
cụ chê rằng hai chữ đầu trong mỗi câu thơ đều thừa, rườm, cần gọt bỏ. Cụ bảo cứ gì phải Thanh minh mới mưa lất phất
(bỏ Thanh minh); hành nhân là người
đi, đi thì phải đi trên đường, cần gì phải lộ thượng (bỏ Lộ thượng); hỏi chứ cần gì mà ướm hỏi (bỏ Tá vấn); hỏi ai chả được cần gì phải hỏi trẻ mục đồng (bỏ Mục đồng). Bài thơ
còn lại: Thời tiết vũ phân phân/ Hành
nhân dục đoạn hồn/ Tửu gia hà xứ thị/ Dao chỉ Hạnh Hoa thôn. Nếu học theo
lập luận của cụ mà đẽo tiếp thì chắc bài thơ nổi tiếng kia chỉ còn: Vũ phân phân/ Dục đoạn hồn/ Hà xứ thị/ Hạnh
Hoa thôn. Ngôn ngữ bị cắt gọt đến vô hồn, bài thơ giống như một cơ thể bị róc hết thịt, còn trơ
bộ xương khô.
Đọc mẫu giai thoại trên làm ta liên tưởng
đến truyện cười dân gian về cửa hàng bán cá. Người nọ mở hàng bán cá, treo tấm
biển: Ở đây có bán cá tươi. Có người
đi qua bình: Cá tươi mới đem bán chứ không tươi sao dám bán, mắc gì
ghi chữ tươi vào. Chủ hàng nghe theo, xóa chữ tươi. Một người khác góp ý: Người ta tới đây, thấy đây chứ ở đâu
nữa mà phải ghi Ở đây cho thừa. Chủ hàng nghe theo, bỏ luôn chữ Ở đây. Chưa hết, một người khác lại bảo:
Bày ra bán không lẽ để cho người ta sao mà đề có bán. Chủ xóa luôn chữ có bán, còn độc một chữ cá, tin rằng
không còn ai bắt bẻ nữa. Thế nhưng vẫn còn một người chê: Nhìn đủ biết, ngửi
tanh rình, không lẽ sợ người ta nhầm với thịt heo sao mà còn ghi cá. Chủ thấy
không ổn, xóa chữ cá, dẹp luôn tấm
biển. Ngôn ngữ để diễn đạt, thế mà khoái đẽo, ham đục... bạo thiến đến bay sạch ngôn ngữ, hết đường nói, câm coi
bộ khỏe!
Nói chung, phải tính đến, phải cân nhắc
ngữ cảnh để giản lược lời nói, phát huy được hiệu quả trong giao tiếp. Không
cường điệu cũng như tránh né, thiếu quan tâm đến sự giản lược. Phải tính đến
“độ giản lược”, giản lược phải ở trong
phạm vi độ, không quá độ, không vượt qua “điểm nút”. Chưa đến độ thì chưa đạt
hiệu quả giản lược nhưng nếu quá độ, vượt “điểm nút” sẽ tạo ra phản tác dụng.
8/09
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Hương sắc trong vườn văn, Nguyễn Hiến Lê,
Thanh Tân, Sài Gòn, 1971.
2. Kiến thức tiếng Việt phổ thông, Đỗ Việt Hùng,
Giáo Dục, Hà Nội, 1997.
3. Luyện văn, Nguyễn Hiến Lê, Văn hóa Thông
tin, 1993.
4. Ngữ pháp tiếng Việt, Hoàng Văn Thung và
Lê A, Trường ĐHSP Hà Nội, 1995.
5. Sổ tay ngữ pháp tiếng Việt, Nguyễn Minh
Thuyết và Tgk, Giáo Dục, Hà Nội, 1996.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét