Các triết gia trước Socrate chỉ tập trung
tìm hiểu vũ trụ, thiên nhiên. Trong xã hội Hi Lạp có những ý tưởng và biện luận
đa dạng kể cả ngụy biện, người nghe thấy lạ, thấy hay nhưng phân vân không biết
đâu là thực đâu là hư, không biết mình nên cư xử, sinh sống như thế nào. Trước
tình hình đó, Socrate chủ trương “Hãy
tự biết lấy chính mình”, “Tôi chỉ biết
một điều duy nhất là tôi không biết gì cả.” Ông không đi vào siêu hình viễn vông như nhiều nhà tư tưởng
trước đó mà đi sát thực tế đời sống nên
được ca tụng là người đã đưa triết học từ trên trời xuống dưới đất.
1. Socrate
(469 (470?)- 399 BC) sinh tại Athèna (Hi Lạp), con của một người thợ chạm đá và
một bà hộ sinh. Ông được phương Tây coi là nhà triết học điển hình nhất.2. Socrate được xem là bậc thầy về truy vấn. Phương pháp tích cực hóa nhận thức của
ông được người đời sau đặt cho nhiều tên
gọi: “Phương pháp truy vấn biện chứng”,
“Phương pháp Socrate”, “Phương pháp bác bỏ bằng logic học”, “Phương pháp bà đỡ
(đỡ đẻ)”, “Phương pháp trợ sản về mặt tinh thần”. Chính Socrate cũng thừa
nhận mình không phải là thầy giáo (theo nghĩa thầy truyền thụ những điều hiểu
biết của mình cho trò, trò thụ động tiếp nhận) mà chỉ giữ vai trò bà đỡ, dẫn
dắt người đối thoại đến một nhận thức sáng rõ, khôn ngoan. Ông nói : “Mẹ tôi đỡ đẻ cho những sản phụ , còn tôi đỡ
đẻ cho những bộ óc”. Và đương nhiên, bà đỡ cần phải có kiến thức và kinh
nghiệm trực tiếp về việc mà bà ta đang làm (ý là từng sinh đẻ rồi mà đi đỡ đẻ
thì càng tốt).
Ông tin rằng mỗi người vốn sẵn có ý
tưởng, hơn thua nhau là chỗ biết hay không biết tìm ra các ý tưởng đó. Dạy
không phải là đưa, truyền kiến thức sang cho người mà giúp người ta tìm thấy
các kiến thức có sẵn trong bản thân
mình. Không phải “đẻ giúp” mà “giúp cho người ta đẻ”. Ông chủ trương
đối thoại để tìm ra chân lí. “Tôi biết
anh không tin tôi, nhưng hình thức cao nhất của tinh túy con người là tự hỏi và
hỏi người khác.”
Hãy thử xem một cuộc hội thoại của
Socrate.
Một lần, Juystermus (J) nói với Socrate
(S) rằng tất thảy bọn trộm cắp, lừa đảo đều là không chính nghĩa. Thế là giữa
họ nổ ra cuộc tranh luận.
S: Khi chiến
tranh, lừa dối kẻ địch thì sao?
J: Cái đó
là chính nghĩa, thế nhưng người tôi nói đến là bạn chúng ta.
S:
Nếu một vị tướng thấy tinh thần
binh lính của ông ta xuống dốc, liền lừa họ rằng viện quân sắp đến, bởi vậy chặn được
sự khủng hoảng tinh thần. Chúng ta coi sự lừa dối này thuộc loại nào?
J:
Tôi cho rằng nên coi là chính
nghĩa.
S:
Lại nữa, một em bé cần phải được
uống thuốc nhưng em không chịu, cha mẹ liền lừa rằng: Cái này ngon lắm! Và bằng
cách lừa dối này đã làm cho sức khỏe em bình phục. Vậy loại lừa dối này xếp vào
đâu?
J:
Theo tôi, nên coi là chính nghĩa.
S:
Một người nào đó thấy bạn thất
vọng cùng cực, sợ anh ta tự sát và đã lấy cắp toàn bộ vũ khí như dao kiếm của
anh ta. Hành vi này nên xếp vào loại nào?
J:
Đương nhiên cũng nên xếp vào chính
nghĩa.
S:
Tức là nói, ngay cả với bạn bè
cũng không nên lúc nào cũng thẳng thắn cả?
J:
Quả đúng như vậy. Nếu ông cho
phép, tôi xin rút lại lời tôi đã nói ra.
Có
thể rút tỉa một số vấn đề về phương pháp:
-
Chia nhỏ vấn đề thành hệ thống câu hỏi và câu trả lời dần dần đúc kết được lời
giải cần tìm. Phương pháp này ảnh hưởng rất rõ trong phương pháp tiếp cận khoa
học, tiếp cận hệ thống bằng cách đặt ra giả thuyết. “Sự phát triển và sử dụng
phương pháp này là một trong những đóng góp bền vững nhất của Socrate”.
-
Đối thoại diễn ra trước khi định nghĩa khái niệm; trong quá trình đối thoại, một
loạt câu hỏi được đặt ra giúp người đối thoại xác định niềm tin cơ bản và giới
hạn kiến thức của họ.
-
Loại bỏ các giả thuyết, theo đó tìm ra các giả thuyết tốt hơn bằng cách từng
bước xác định và loại bỏ các giả thuyết dẫn đến mâu thuẫn.
-
Người đối thoại bị vạch trần là tự mâu thuẫn với mình. Vạch trần mâu thuẫn thì
sẽ loại trừ được sự hiểu biết giả dối, còn nỗi băn khoăn mà trí óc sa vào đó sẽ
thúc đẩy tư tưởng đi tìm chân lí thật sự, buộc
người ta phải xem lại tính đúng đắn về các niềm tin của mình.
3.
Có nhiều con đường để nhận thức chân lí, mỗi con đường có những ưu điểm và hạn
chế của nó, lựa chọn con đường nhận thức và tác động nhận thức có hiệu quả
không còn tùy thuộc vào đối tượng và người tác động. Chân lí có thể là những kết quả đã được kiểm
nghiệm, có sẵn mà người hướng dẫn có thể truyền thụ yêu cầu, cách thức đi đến
kết quả cuối cùng. Đây là lối truyền thụ
một chiều có tính áp đặt cả về phương pháp và kết quả. Hạn chế của lối truyền
thụ này là ít khơi động tính tích cực, tính phản biện, tính sáng tạo trong quá
trình nhận thức chân lí. Thời cổ đại ở Trung Hoa, Khổng Tử (551-479 BC, nhà
giáo dục đầu tiên của Trung Hoa theo đúng nghĩa của từ này) đã nhận ra một phần
vấn đề nên chủ trương gợi cho người học nhận thức. Ông chủ trương “Cử nhất phản
tam” –dạy cho nó biết một phương mà nó không suy ra ba phương kia thì đứng dạy
nó nữa .Ý như học một biết mười, phát huy trí thông minh của người học, thầy
chỉ gợi, trò phải tự tìm. Thầy chỉ trình bày một phần còn trò phải tự tìm để
hoàn thiện chân lí. Cũng gần thời với
Khổng Tử, ở phương Tây, Socrate đã tập trung tích cực hóa vấn đề nhận thức,
tăng cường mạnh hơn nữa vai trò của người nhận thức, giúp người học tự mình tìm
ra và thừa nhận chân lí. Phương pháp “Trợ sản tinh thần” của ông dù ra đời trên
hai nghìn năm vẫn tỏ ra hết sức thích hợp trong việc giáo dục, rèn luyện nhận
thức, hình thành cách dạy cách học trong thời đại ngày nay.
TÀI
LIỆU
1.
Wikipedia- bách khoa toàn thư mở- mục
Socrates.
2.
Từ điển triết học giản yếu, Hữu Ngọc và
Tgk, Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
3.
Từ điển triết học, Tiến Bộ Mát-xcơ-va,
1975.
4.
Lịch sử nhân loại cổ đại, tập 2, Thiên
Phong Bửu Dưỡng, Đa Minh Thiện Bản, Sài Gòn, 1972.
5.
Phương pháp biện luận, Triệu Truyền Đống,
(Nguyễn Quốc Siêu biên dịch), Giáo Dục, Hà Nội,
2002.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét