MỤC LỤC BLOG

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2025

TRĂNG TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI- QUA QUỐC ÂM THI TẬP

BÚT NGUYÊN TỬ

ảnh internet

            Trăng  là nguồn mạch cảm  hứng thơ, thi     nào  mà chẳng  một  lần rung  cảm với  bóng trăng. Với Nguyễn Trãi thì nguồn  cảm hứng  vô tận  đó  đã thấm  sâu vào thơ, nhập  vào  triết    sống, in  đậm vào  phong thái  sinh hoạt. Tập thơ Quốc  âm của ông có 257 bài, trăng  xuất hiện  trong   59  bài (# 23%), trong  đó, Tự thán  41  bài thì  13  bài có trăng (31,7%), Thuật  hứng      25  bài  thì trăng  xuất hiện 10 lần (40%),  một tần  số trăng cực   kì lớn    các nhà thơ  xưa nay  khó ai sánh  kịp.

            Trăng đến như một  quy luật vĩnh  cửu:  Nước  mấy trăm thu  còn vậy, Nguyệt bao  nhiêu  kiếp nhẫn (đến) nay (Mạn thuật 1), như    một  sự  vận hành   được  sắp  đặt  sẵn: Ngòi  khuở (thuở) triều  cường chờ nguyệt  mọc (Tự thán  18), Vầng nguyệt  lên khuở (thuở)  nước cường (Trần tình  6), trăng theo  con nước  lớn  ròng,  điểm nhịp thời  gian: Thấy nguyệt tròn thì  kể tháng, Dìn (Nhìn) hoa nở  mới hay xuân (Tự thán  32). Tháng ngày như   bị   quên  lãng, chợt   khi trăng   tròn  hoa nở mới nhận  ra, cuộc   sống nhàn tản, tự tại của khách vô tâm.

Trăng  ngập  tràn  không  gian:  Nhật nguyệt  soi  đòi chốn (khắp  nơi) hiện (Trần  tình 9), cả một thế  giới đầy trăng:  Nguyệt trong   đáy nước  nguyệt trên  không (Thủy  trung nguyệt). Trăng chiếu  soi sông núi: Nguyệt  mọc  đầu non kình   dỏi tiếng (Ngôn  chí  21).  đây  không chỉ  ánh   sáng mà  còn âm thanh, tiếng chuông  chùa lay  động hòa nhập như  mừng  đón trăng  lên, tác  giả  còn hình tượng hóa,  liên kết hai  trạng thái tĩnh và  động: Một tiếng chày  đâu đâm cối nguyệt (Tích cảnh thi 1) tạo thành  âm  vang trong   đêm sáng. Rồi Tiếng   quyên khắc khoải khuở (thuở) trăng (Tự thán  28)   lẽ   cũng  làm nguồn  cảm hứng cho các thi    sau này. Nguyễn Du từng  viết: Dưới trăng   quyên đã  gọi hè (Truyện Kiều),  trong Cuốc  kêu cảm hứng, Nguyễn Khuyến cũng nói về tiếng  chim cuốc (quốc,  quyên): Khắc khoải  sầu  đưa   giọng  lửng  .

            Đặc  biệt  ở Nguyễn Trãi, trăng  không chỉ hiện  diện     sông  hồ lớn   rộng mà  còn  sáng chiếu tận  đìa  ao: Song  có hoa mai  đìa (ao) có nguyệt (Tự thán 12). Ao  không  để thả  cá mà  để  bóng trăng hiện về: Đìa tham nguyệt hiện chăng (không) buông (thả) cá, Rừng tiếc chim về ngại  phá cây (Mạn thuật 6), không thả  cá,  giữ  nước  ao  thật  trong  để thưởng trăng: Nước dưỡng cho thanh   đìa thưởng nguyệt (Ngôn chí 3). Ao để nuôi trăng, rừng để giữ chim, nước  ao  trong như  tấm lòng vô tâm của trăng. Nguyễn Trãi có con mặt tinh tế khi tả trăng: Hồ thanh nguyệt  hiện  bóng tròn (Ngôn chí  20), mặt  hồ trong   xanh, phẳng lặng như gương, không chút  lay  động, yên tĩnh   tuyệt  đối nên   bóng trăng không  lung  linh mà hiển  hiện  tròn  đầy. Đìa thanh (trong) đêm  quyến nguyệt  vô tâm (Thuật  hứng 25). Trăng  vô tâm,  đìa  cũng  vô tâm, vì  vô tâm nên đìa  có trăng, buông mà được: Vô tâm  đìa  có trăng bạc (Tự thán 8),  thể hiện triết  lí buông thả của một  ẩn sĩ.  

            Tác  giả  tác  giả  từng  ray rứt  khi nói  đến dòng trăng (ngòi nguyệt) như một  cách  sống   quen thuộc tự nhiên như nhiên mà nay phải xa lìa (có thể  lúc tác  giả phải từ   bỏ để ra  làm  quan): Lồng chim  ao cá  từ  làm khách, Ngòi nguyệt ngàn  mai  phụ  lệ  nhà (Tự thán 7).

            Hình   ảnh quờ  gậy trúc lội suối, đạp  bóng trăng tìm mai trong chiều  tối: Quét trúc   bước  qua lòng suối, tìm  mai về đạp bóng trăng (Ngôn chí  15),   cả trong  đêm lạnh: Tìm mai  đạp  nguyệt tuyết  xâm khăn (Thuật  hứng  15), chữ  đạp táo  bạo thần  tình. Tác  giả   đã  từng  dùng chữ  đạp rất đắc  địa  trong  câu: Đạp áng mây ôm  bó củi, Ngồi  bên suối gác cần câu (Trần  tình 5). Đạp trăng  và đạp  mây, phong thái  ung   dung tiêu sái như  một  tiên ông.

            Trăng    mai xuất hiện  với tần số khá cao  trong thơ Nguyễn Trãi. Trăng  treo cành  mai như một  bức tranh thanh  thoát  dịu dàng: Hiên  mai đeo (treo)  nguyệt  quản (thỏa  sức) tiêu hao (Tự thán  11), còn hình   ảnh nào  thơ mộng  hơn. Chà (Cành) mai  đêm nguyệt  dậy  xem  bóng (Ngôn chí  2), trăng    mai  khắng khít,  có trăng thì có mai, hương  mai, loại hương thầm  chỉ  có trăng mới  biết: Sầm (Thầm) đưa hương một nguyệt hay (Mai thi). Trăng   dẫn  lối  cho người  đến  với mai:   trúc  xông  qua làn  suối, Tìm mai theo  đạp  bóng trăng (Tự thán 7). Mai và trăng hòa  hợp, Ánh  cửa trăng mai tấp  tấp (Tự thán 27),  soi chiếu  lẫn nhau. Mai  hiển  hiện nhờ trăng, có mai, trăng càng thêm  lung linh sinh   động.

            Trăng    hoa  cũng là  một cặp đôi hiển hiện:  Hoa hoa nguyệt  nguyệt  luống (không) vô  tình (Tích cảnh thi 4) làm ta nhớ đến một  đoạn  trong Chinh phụ ngâm khúc: Hoa  dãi nguyệt  nguyệt in một tấm, Nguyệt  lồng hoa hoa thắm từng bông, Nguyệt hoa hoa nguyệt  trùng  trùng Nguyễn  Trãi chỉ phác lược  xương  cốt, thi gia đời  sau làm  cho càng  phong phú sinh  động hơn. Hình   ảnh hoa nguyệt như một  sự  mời  gọi, lôi  cuốn: Hoa nguyệt  đôn (giục)  dùng  mấy  phút lành (đẹp) (Tích cảnh thi 9). Nguyễn Trãi  còn nói  đến  hương hoa, hương sen: Gió  đưa hương  đêm nguyệt tịnh (Liên hoa). Đêm trăng   dịu làm cho mùi hương càng thêm nhẹ nhàng thanh   thoát.

            Uống   rượu  dưới trăng của  Lí Bạch là một ý tưởng  lạ, lôi cuốn cả hàng nghìn năm nay: Cử  bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân (Nâng chén mời  trăng  sáng, Đối ảnh thành ba người) (Nguyệt hạ  độc chước). Với Nguyễn Trãi thì hình   ảnh  này như  một  điển tích: Trường Canh (Lí Bạch)  hỏi nguyệt tay  dừng chén (Tự thán 4).  Ta  cùng bóng   miễn  (với)  nguyệt ba người  (Tự thán  6). Trạng thái  trà  rượu của Nguyễn Trãi ung   dung hơn: Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén, Ngày vắn  xem hoa bợ cây (Ngôn chí  10). Nếu Lí Bạch nâng chén  hỏi trăng thì Nguyễn Trãi cũng  Hiên  mai cầm chén  hỏi trăng (Mạn thuật 1) không những thế, Ức Trai còn  nghiêng chén uống trăng (hớp  nguyệt) nữa, phong thái nhẹ nhàng thanh  thoát  hơn. Đêm  trăng, Lí Bạch  say rượu, mê trăng, nhảy  xuống sông ôm  bóng trăng  mà chết còn ở  đây, Nguyễn Trãi Say  minh nguyệt chè ba chén (Mạn thuật 5), chỉ say trăng nên vẫn  ung  dung tự tại. Say mê gắn    với trăng, ai  náo nức  chơi xuân kẻo hết  xuân  đi  riêng Nguyễn Trãi chơi trăng: Say thưởng nguyệt lệ (sợ) thu  qua (Bảo kính  cảnh giới 41), thân  thiết tới mức không muốn  rời, hỏi mấy ai yêu trăng, mê   đắm  trăng thu  hơn thế!

            Thuyền trăng là   hình ảnh  khá  quen thuộc  trong thơ cổ  điển, với  Nguyễn Trãi thì  đây    cảm  hứng  thể  hiện   phong thái    nhàn tản, thuyền  đậu thuyền  đi  luôn  có bóng trăng. Dừng thì ngắm trăng: Thuyền  kề  bãi tuyết nguyệt chênh   chênh (Bảo  kính  cảnh giới 31),  đi thì  chở trăng: Bến  liễu  mới  dời  thuyền chở nguyệt (Bảo  kính  cảnh  giới 30), Thuyền chèo  đêm  nguyệt  sóng biếc (Ngôn chí  21), nhưng  rồi  dừng chèo, sợ   xao  động bóng trăng: Nước còn nguyệt  hiện  sá  thôi chèo (Mạnh thuật 8) và  cuối cùng dựa  theo trăng,  nhập vào trăng: Thuyền nổi  dòng thu  có nguyệt  đưa (Tự thán 20), tùy hứng  giương  buồm, thả thuyền lướt nhẹ theo  trăng theo  gió: Mui thác (gởi)  trăng   dương  thế hứng, Buồm nhân gió mặc khi (lúc) phiêu (trôi) (Tự thán  31). Thuyền  đi  với trăng, thuyền hòa vào trăng, và  rồi thuyền với trăng nhập  làm một- thuyền trăng.

            Yêu trăng  nên  ngay nơi ở  của tác  giả  cũng là  chỗ  đón trăng: Đêm thanh nguyệt hiện ngoài  hiên  trúc (Ngôn chí  17), nơi  Gió  tịn (đưa) rèm thay chổi  quét, Trăng   kề  cửa  kẻo (khỏi)  đèn khêu (Thuật hứng  22). Ánh  cửa  trăng  mai tấp  tấp (Tự thán  27). Đó chính là  Kho thu phong nguyệt  đầy  qua nóc (Thuật hứng   24).

            Trăng  là nguồn  mạch của thơ, trăng  hòa vào  thơ  tạo cảm  hứng, chia sẻ  cùng thi nhân: Thơ nên  cửa thấy nguyệt vào (Mạn thuật  13). Phải chăng  câu Trăng vào  cửa sổ  đòi thơ của một người nổi  tiếng   sau này đã  dựa theo ý trên? Tuyết thấm  đẫm vào  mai,  trăng chiếu   rọi  ao  đìa gợi hồn thơ  lai láng: Đìa  in  bóng nguyệt  hứng thêm dài (Tự thán 14), không  sáng tác thì  cũng  ngâm  đọc: Câu  mầu  ngâm  dạ  nguyệt  càng  cao (Thuật  hứng 7). Những  câu  có bóng trăng  rất  được trân  trọng gìn  giữ: Dời (Bỏ đi) ngó rèm lồng (in) nguyệt  một câu (Bảo  kính  cảnh giới  32)  vì thơ  là tri  kỉ: Lòng thơ ngàn dặm nguyệt ba canh (Bảo  kính  cảnh giới 42), trăng thiết thân   như  máu  thịt.

Trăng  hiển  hiện khắp  nơi, thấm  vào  từng   sự vật. Trong bài Tải nguyệt  minh   quy (Chở trăng  về) có  câu  Không thuyền mãn tải  nguyệt  minh   quy (Có sách viết Mãn thuyền  không tải nguyệt  minh  quy- Thuyền  không chở  đầy một thuyền trăng). Đó  là thuyền  của  Đức Thành  thiền sư bên Trung  Quốc còn  thuyền của   Nguyễn Trãi không những   đầy trăng   còn đầy  khói mây: Kho thu  phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà (khói ráng)  nặng  vạy (vẹo) then (Thuật  hứng  24). Đặc  biệt ở  đây   trăng chiếu  rọi  và hiển hiện trên mọi sự vật:  Chè  tiên  kín (gánh) nước nguyệt  đeo (mang) về (Thuật hứng  6). Gánh nước về  châm trà  đồng thời  cũng gánh theo trăng, quảy  túi  cũng  quảy theo  trăng: Quảy trăng túi nặng thằng hề (tiểu đồng theo hầu) (Bảo  kính  cảnh  giới  28). Bầu nước gánh  cũng  phản chiếu (in)  ánh trăng: Chè  tiên kín (gánh) nước  bầu  in nguyệt (Thuật hứng 3). Trên bầu  nước của  kẻ sĩ nghèo khó  Nhan Hồi cũng  có trăng: Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt (Ngôn chí 11). Trăng tỏa rạng, tràn ngập trăng và trăng, mọi thứ  thành trăng.            

Mây  khách   khứa nguyệt  anh  tam (em) (Thuật  hứng 19). Yêu thiên nhiên, vừa trân  trọng  vừa  gần  gũi, thân thiết  tới mức như thân thích  máu  thịt, chưa  đâu  trong  văn chương    sự thể hiện,  so sánh ví   von, liên tưởng  độc đáo  đến vậy. Nguyễn Trãi là  nhà thơ trăng, trăng   sáng  ngời  thanh  khiết như chính  bản thân ông   vậy.

12-9-25

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét