BÚT NGUYÊN TỬ
ảnh internet
Trăng là nguồn mạch cảm hứng thơ, thi sĩ nào mà chẳng một lần rung cảm với bóng trăng. Với Nguyễn Trãi thì nguồn cảm hứng vô tận đó đã thấm sâu vào thơ, nhập vào triết lí sống, in đậm vào phong thái sinh hoạt. Tập thơ Quốc âm của ông có 257 bài, trăng xuất hiện trong 59 bài (# 23%), trong đó, Tự thán có 41 bài thì 13 bài có trăng (31,7%), Thuật hứng có 25 bài thì trăng xuất hiện 10 lần (40%), một tần số trăng cực kì lớn mà các nhà thơ xưa nay khó ai sánh kịp.
Trăng đến như một quy luật vĩnh cửu: Nước mấy trăm thu còn vậy, Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn (đến) nay (Mạn thuật 1), như một sự vận hành được sắp đặt sẵn: Ngòi khuở (thuở) triều cường chờ nguyệt mọc (Tự thán 18), Vầng nguyệt lên khuở (thuở) nước cường (Trần tình 6), trăng theo con nước lớn ròng, điểm nhịp thời gian: Thấy nguyệt tròn thì kể tháng, Dìn (Nhìn) hoa nở mới hay xuân (Tự thán 32). Tháng ngày như bị quên lãng, chợt khi trăng tròn hoa nở mới nhận ra, cuộc sống nhàn tản, tự tại của khách vô tâm.
Trăng ngập tràn không gian: Nhật nguyệt soi đòi chốn (khắp nơi) hiện (Trần tình 9), cả một thế giới đầy trăng: Nguyệt trong đáy nước nguyệt trên không (Thủy trung nguyệt). Trăng chiếu soi sông núi: Nguyệt mọc đầu non kình dỏi tiếng (Ngôn chí 21). Ở đây không chỉ ánh sáng mà còn âm thanh, tiếng chuông chùa lay động hòa nhập như mừng đón trăng lên, tác giả còn hình tượng hóa, liên kết hai trạng thái tĩnh và động: Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt (Tích cảnh thi 1) tạo thành âm vang trong đêm sáng. Rồi Tiếng quyên khắc khoải khuở (thuở) trăng (Tự thán 28) có lẽ cũng làm nguồn cảm hứng cho các thi sĩ sau này. Nguyễn Du từng viết: Dưới trăng quyên đã gọi hè (Truyện Kiều), trong Cuốc kêu cảm hứng, Nguyễn Khuyến cũng nói về tiếng chim cuốc (quốc, quyên): Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ.
Đặc biệt ở Nguyễn Trãi, trăng không chỉ hiện diện ở sông hồ lớn rộng mà còn sáng chiếu tận đìa ao: Song có hoa mai đìa (ao) có nguyệt (Tự thán 12). Ao không để thả cá mà để bóng trăng hiện về: Đìa tham nguyệt hiện chăng (không) buông (thả) cá, Rừng tiếc chim về ngại phá cây (Mạn thuật 6), không thả cá, giữ nước ao thật trong để thưởng trăng: Nước dưỡng cho thanh đìa thưởng nguyệt (Ngôn chí 3). Ao để nuôi trăng, rừng để giữ chim, nước ao trong như tấm lòng vô tâm của trăng. Nguyễn Trãi có con mặt tinh tế khi tả trăng: Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn (Ngôn chí 20), mặt hồ trong xanh, phẳng lặng như gương, không chút lay động, yên tĩnh tuyệt đối nên bóng trăng không lung linh mà hiển hiện tròn đầy. Đìa thanh (trong) đêm quyến nguyệt vô tâm (Thuật hứng 25). Trăng vô tâm, đìa cũng vô tâm, vì vô tâm nên đìa có trăng, buông mà được: Vô tâm đìa có trăng bạc (Tự thán 8), thể hiện triết lí buông thả của một ẩn sĩ.
Tác giả tác giả từng ray rứt khi nói đến dòng trăng (ngòi nguyệt) như một cách sống quen thuộc tự nhiên như nhiên mà nay phải xa lìa (có thể lúc tác giả phải từ bỏ để ra làm quan): Lồng chim ao cá từ làm khách, Ngòi nguyệt ngàn mai phụ lệ nhà (Tự thán 7).
Hình ảnh quờ gậy trúc lội suối, đạp bóng trăng tìm mai trong chiều tối: Quét trúc bước qua lòng suối, tìm mai về đạp bóng trăng (Ngôn chí 15), và cả trong đêm lạnh: Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn (Thuật hứng 15), chữ đạp táo bạo thần tình. Tác giả đã từng dùng chữ đạp rất đắc địa trong câu: Đạp áng mây ôm bó củi, Ngồi bên suối gác cần câu (Trần tình 5). Đạp trăng và đạp mây, phong thái ung dung tiêu sái như một tiên ông.
Trăng và mai xuất hiện với tần số khá cao trong thơ Nguyễn Trãi. Trăng treo cành mai như một bức tranh thanh thoát dịu dàng: Hiên mai đeo (treo) nguyệt quản (thỏa sức) tiêu hao (Tự thán 11), còn hình ảnh nào thơ mộng hơn. Chà (Cành) mai đêm nguyệt dậy xem bóng (Ngôn chí 2), trăng và mai khắng khít, có trăng thì có mai, hương mai, loại hương thầm chỉ có trăng mới biết: Sầm (Thầm) đưa hương một nguyệt hay (Mai thi). Trăng dẫn lối cho người đến với mai: Dò trúc xông qua làn suối, Tìm mai theo đạp bóng trăng (Tự thán 7). Mai và trăng hòa hợp, Ánh cửa trăng mai tấp tấp (Tự thán 27), soi chiếu lẫn nhau. Mai hiển hiện nhờ trăng, có mai, trăng càng thêm lung linh sinh động.
Trăng và hoa cũng là một cặp đôi hiển hiện: Hoa hoa nguyệt nguyệt luống (không) vô tình (Tích cảnh thi 4) làm ta nhớ đến một đoạn trong Chinh phụ ngâm khúc: Hoa dãi nguyệt nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông, Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng… Nguyễn Trãi chỉ phác lược xương cốt, thi gia đời sau làm cho càng phong phú sinh động hơn. Hình ảnh hoa nguyệt như một sự mời gọi, lôi cuốn: Hoa nguyệt đôn (giục) dùng mấy phút lành (đẹp) (Tích cảnh thi 9). Nguyễn Trãi còn nói đến hương hoa, hương sen: Gió đưa hương đêm nguyệt tịnh (Liên hoa). Đêm trăng dịu làm cho mùi hương càng thêm nhẹ nhàng thanh thoát.
Uống rượu dưới trăng của Lí Bạch là một ý tưởng lạ, lôi cuốn cả hàng nghìn năm nay: Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân (Nâng chén mời trăng sáng, Đối ảnh thành ba người) (Nguyệt hạ độc chước). Với Nguyễn Trãi thì hình ảnh này như một điển tích: Trường Canh (Lí Bạch) hỏi nguyệt tay dừng chén (Tự thán 4). Ta cùng bóng miễn (với) nguyệt ba người (Tự thán 6). Trạng thái trà rượu của Nguyễn Trãi ung dung hơn: Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén, Ngày vắn xem hoa bợ cây (Ngôn chí 10). Nếu Lí Bạch nâng chén hỏi trăng thì Nguyễn Trãi cũng có Hiên mai cầm chén hỏi trăng (Mạn thuật 1) không những thế, Ức Trai còn nghiêng chén uống trăng (hớp nguyệt) nữa, phong thái nhẹ nhàng thanh thoát hơn. Đêm trăng, Lí Bạch say rượu, mê trăng, nhảy xuống sông ôm bóng trăng mà chết còn ở đây, Nguyễn Trãi Say minh nguyệt chè ba chén (Mạn thuật 5), chỉ say trăng nên vẫn ung dung tự tại. Say mê gắn bó với trăng, ai náo nức chơi xuân kẻo hết xuân đi riêng Nguyễn Trãi chơi trăng: Say thưởng nguyệt lệ (sợ) thu qua (Bảo kính cảnh giới 41), thân thiết tới mức không muốn rời, hỏi mấy ai yêu trăng, mê đắm trăng thu hơn thế!
Thuyền trăng là hình ảnh khá quen thuộc trong thơ cổ điển, với Nguyễn Trãi thì đây là cảm hứng thể hiện phong thái nhàn tản, thuyền đậu thuyền đi luôn có bóng trăng. Dừng thì ngắm trăng: Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh (Bảo kính cảnh giới 31), đi thì chở trăng: Bến liễu mới dời thuyền chở nguyệt (Bảo kính cảnh giới 30), Thuyền chèo đêm nguyệt sóng biếc (Ngôn chí 21), nhưng rồi dừng chèo, sợ xao động bóng trăng: Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo (Mạnh thuật 8) và cuối cùng dựa theo trăng, nhập vào trăng: Thuyền nổi dòng thu có nguyệt đưa (Tự thán 20), tùy hứng giương buồm, thả thuyền lướt nhẹ theo trăng theo gió: Mui thác (gởi) trăng dương thế hứng, Buồm nhân gió mặc khi (lúc) phiêu (trôi) (Tự thán 31). Thuyền đi với trăng, thuyền hòa vào trăng, và rồi thuyền với trăng nhập làm một- thuyền trăng.
Yêu trăng nên ngay nơi ở của tác giả cũng là chỗ đón trăng: Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc (Ngôn chí 17), nơi mà Gió tịn (đưa) rèm thay chổi quét, Trăng kề cửa kẻo (khỏi) đèn khêu (Thuật hứng 22). Ánh cửa trăng mai tấp tấp (Tự thán 27). Đó chính là Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc (Thuật hứng 24).
Trăng là nguồn mạch của thơ, trăng hòa vào thơ tạo cảm hứng, chia sẻ cùng thi nhân: Thơ nên cửa thấy nguyệt vào (Mạn thuật 13). Phải chăng câu Trăng vào cửa sổ đòi thơ của một người nổi tiếng sau này đã dựa theo ý trên? Tuyết thấm đẫm vào mai, trăng chiếu rọi ao đìa gợi hồn thơ lai láng: Đìa in bóng nguyệt hứng thêm dài (Tự thán 14), không sáng tác thì cũng ngâm đọc: Câu mầu ngâm dạ nguyệt càng cao (Thuật hứng 7). Những câu có bóng trăng rất được trân trọng gìn giữ: Dời (Bỏ đi) ngó rèm lồng (in) nguyệt một câu (Bảo kính cảnh giới 32) vì thơ là tri kỉ: Lòng thơ ngàn dặm nguyệt ba canh (Bảo kính cảnh giới 42), trăng thiết thân như máu thịt.
Trăng hiển hiện khắp nơi, thấm vào từng sự vật. Trong bài Tải nguyệt minh quy (Chở trăng về) có câu Không thuyền mãn tải nguyệt minh quy (Có sách viết Mãn thuyền không tải nguyệt minh quy- Thuyền không chở đầy một thuyền trăng). Đó là thuyền của Đức Thành thiền sư bên Trung Quốc còn thuyền của Nguyễn Trãi không những đầy trăng mà còn đầy khói mây: Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà (khói ráng) nặng vạy (vẹo) then (Thuật hứng 24). Đặc biệt ở đây trăng chiếu rọi và hiển hiện trên mọi sự vật: Chè tiên kín (gánh) nước nguyệt đeo (mang) về (Thuật hứng 6). Gánh nước về châm trà đồng thời cũng gánh theo trăng, quảy túi cũng quảy theo trăng: Quảy trăng túi nặng thằng hề (tiểu đồng theo hầu) (Bảo kính cảnh giới 28). Bầu nước gánh cũng phản chiếu (in) ánh trăng: Chè tiên kín (gánh) nước bầu in nguyệt (Thuật hứng 3). Trên bầu nước của kẻ sĩ nghèo khó Nhan Hồi cũng có trăng: Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt (Ngôn chí 11). Trăng tỏa rạng, tràn ngập trăng và trăng, mọi thứ thành trăng.
Mây khách khứa nguyệt anh tam (em) (Thuật hứng 19). Yêu thiên nhiên, vừa trân trọng vừa gần gũi, thân thiết tới mức như thân thích máu thịt, chưa đâu trong văn chương có sự thể hiện, so sánh ví von, liên tưởng độc đáo đến vậy. Nguyễn Trãi là nhà thơ trăng, trăng sáng ngời thanh khiết như chính bản thân ông vậy.
12-9-25
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét