MỤC LỤC BLOG

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2025

TỤC VÀ THANH (phiếm luận)

TIỂU  HÙNG TINH

 ảnh internet

            Yếu tố tục và thanh được  biểu  hiện bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật  khác nhau nào  nhã ngữ, nói giảm, nói tránh, ở  đây chỉ  đề  cập hai  dạng thức:  Lời tục ý thanh     ý tục lời thanh.

            Lời tục ý thanh thể hiện  rõ nhất  trong thủ  pháp  đố tục giảng thanh, lời  đố mới nghe   qua tưởng thô tục, tưởng miêu tả  chuyện cấm kị tục tĩu nào  ngờ lại  đề  cập chuyện trong  sáng. Câu  đố là hình thức nghệ thuật thể hiện rõ thủ pháp này. Có cây  mà không có cành, Có hai thằng bé rập  rình hai bên: Nghe tưởng hạ  bộ quý ông té ra là cây bắp (ngô). Trong thơ, bà Hồ  Xuân Hương là bậc thầy về  lời tục ý thanh. Phình    ra  ba  góc  da còn thiếu,  Xếp lại  đôi bên thịt vẫn thừa, đọc lên cứ tưởng của   quý nữ  giới nào  ngờ  bà miêu tả  cái quạt. Trai co  gối hạc  khom khom gật, gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng…Cột nhổ  đi rồi lỗ  bỏ không, đọc lên cứ tưởng  thao tác  quan hệ nam nữ nào ngờ  bà ta tả  trò  đánh   đu…

            Lời tục ý thanh làm cho người  đọc người nghe nhầm    tục, suy nghĩ  liên hệ, so sánh hình  ảnh  cuối cùng tìm ra sự thật, thú  vị  là đó.

            Một thủ pháp ngược lại  ý tục lời thanh, tả  cái tục  làm  sao cho thanh, Nguyễn Du  là bậc thầy thủ pháp này. Thúc Sinh nhìn Thúy Kiều tắm, hành   động lén lút  cấm   kị thế  mà tác  giả đã tả:   màu  trong ngọc trắng ngà, Rành rành   sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Lời  đẹp, nhã, Kiều hiện  ra như một  bức tranh  khỏa thân tuyệt  vời. Phạm Thiên Thư cũng  có hai  câu miêu tả  chỗ   cấm  của  người  phụ  nữ làm cho  nó trở   nên mông lung thanh thoát: Vai  nghiêng nghiêng   suối tơ huyền, Đôi    đào nở trên miền tuyết thơm (Động hoa vàng). Miêu tả nhũ thể nhục  dục  mà sang  quý, thanh  khiết như cảnh   đào tiên.

            Mã Giám Sinh  đi  mua  Kiều, mê  đắm sắc  đẹp, ý  đồ chiếm  đoạt của y được  tác  giả khéo thể hiện  qua cụm từ  nước trước bẻ hoa. Thay  vì nói cướp đoạt  đời con gái thì dùng hai chữ  bẻ hoa nhẹ nhàng, thanh nhã  hơn. Sau này, trong bước đời  trôi nổi, khi nhớ  đến Kim Trọng, Kiều tiếc: Biết thân đến bước  lạc loài, Nhị  đào thà bẻ cho người tình chung. Cũng bẻ  hoa nhưng thái độ tự nguyện hiến dâng, khác với  nước  trước bẻ hoa như một  sự chiếm  đoạt.

Cảnh   Mã Giám  Sinh quan hệ  xác thịt  với Kiều  được mô tả: Một  cơn  mưa  gió nặng nề, Thương gì  đến ngọc tiếc  gì đến hương. Thủ  pháp Họa vân hiển nguyệt (Vẽ  mây nẩy trăng),  dùng hình   ảnh mưa  gió nặng nề tả trạng thái vùi  dập. Trong Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều  cũng  tả  cảnh   quan hệ   xác thịt  giữa  vua    cung nữ nhưng khác hẳn: Cái  đêm hôm  ấy đêm gì, Bóng dương lồng bóng trà   mi trập trùng. Quan hệ nam nữ  đây như  một  sự hòa nhập  dịu dàng giữa màu sắc (hoa) và   ánh  sáng, sống  động  và thanh   quý  biết bao.

            Chuyện Thúy Kiều thất thân  với Mã Giám Sinh, được ví  von: Tiếc thay  một  đóa trà  mi, Con ong  đã  tỏ đường  đi  lối về. Tác  giả  dùng hình   ảnh hoa, ong, đường  đi lối về  để  nói  đến chuyện đớn đau nhục nhã nhất của đời  người con gái. Ngay cả  Tú Bà, một  bà trùm buôn thịt bán người ngay trong cơn hung hãn cuồng nộ mà khi nói chuyện trinh  tiết lời lẽ cũng  khéo léo kín đáo: Màu hồ  đã mất đi rồi, Thôi thôi vốn  liếng  đi đời nhà ma.           

            Phải khéo  dùng hình  ảnh, tạo  liên tưởng so sánh, vừa  che  giấu  vừa  khơi gợi, thủ pháp ý  tục  lời thanh đòi hỏi có sự  cao tay.

16-9-25

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét