MỤC LỤC BLOG

Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

ƠN (chữ nghĩa)


TIỂU HÙNG TINH
Ảnh internet
Kết quả hình ảnh cho ơn nghĩa
          ƠN (Hán Việt: Ân): Điều giúp mang lại lợi ích và sự tốt đẹp cho người khác, xuất phát từ tấm lòng trong sang, không có ý đồ vụ lợi.
            Một loạt từ được hình thành từ chữ ơn: ơn nghĩa, ơn đức, ơn phước, ơn huệ, ân nhân, ân sư, ân công (người có vị thế trong xã hội giúp đỡ mình), ân giảm, ân xá… Nên lưu ý: Ngoại trừ ân  với nghĩa ân huệ, ân phước… còn ân trong ân ái (yêu nhau), ân cần (đãi người chu đáo, nhiệt tình) thì không đọc chệch thành ơn vì các tiếng ân này nghĩa khác.


            Đi với  từ ơn cũng tạo ra một số hành động: làm ơn (thi ân), ban ơn, chịu ơn (hàm ân, thọ ân). Cảm ơn là lời đáp tạ tối thiểu khi thọ ơn,cao hơn thì biết ơn, ghi ơn, mang ơn, đội ơn… và có hành động để  trả ơn (báo ân), đền ơn, tạ ơn…
            Ơn đi với phước, được người khác làm ơn giúp đỡ tức là mình có phước, thêm được điều tốt lành. Lắm khi người ta xem ơn phước có nguồn gốc thần thánh siêu hình  nhập vào tâm thức tạo thành một thói quen nói năng khi trò chuyện: ơn trời, ơn chúa, ơn trên, ân đức tổ tiên (phúc ấm gia đình)…Con người không chỉ hàm ân xã hội mà còn chịu ơn tự nhiên: “Ơn trời mưa nắng phải thì- Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu” (Ca dao). Thời tiết thuận hoà được xem như một ơn phước  mà thiên nhiên mang lại nhất là trong xã hội xưa, con người hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên.
            Sống là có chịu ơn người khác, ai cũng vậy. Trước hết là ơn sinh thành, ơn dưỡng dục xem là ơn trời biển. Kiều xem bán mình chuộc cha  là một cách trả ơn cha, “Làm con trước phải đền ơn sinh thành” (Kiều), “Nhớ ơn chín chữ cao sâu- Một ngày một ngả bong dâu tà tà” (Kiều). Trong xã hội phong kiến còn có chuyện chịu ơn vua (ân tứ, ân trạch). Do quan niệm nước là của vua, thần dân đều phải chịu ơn vua. Những người đỗ đạt thường được vua ban thưởng cho vinh quy bái tổ gọi là ân tứ vinh quy.  Vua ban ơn mưa móc (ân vũ lộ), người thọ ơn sẵn sang hi sinh báo đáp, chưa được báo đáp thì canh cánh bên lòng, tủi hổ: “Ơn vua chưa chút đền công- Cúi trông thẹn đất ngửa trông thẹn trời” (Nguyễn Khuyến).
            Vùng Tri Tôn, An Giang, năm 1876, ra đời đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa chịu ảnh hưởng Phật Giáo, do Ngô Lợi sáng lập. Ân được quan niệm gồm Tứ đại trọng ân: Đất, nước, gió, lửa; Tứ trọng ân: ân tổ tiên, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại.
            Điển tích Ơn Phiếu mẫu chỉ chuyện Hàn Tín thuở hàn vi đói khổ được một bà già làm nghề giặt giũ cho bát cơm (bát cơm Phiếu mẫu, tấm lòng Phiếu mẫu). Sau này Hàn Tín giúp Lưu Bang  làm nên nghiệp lớn, được phong vương, nhớ ơn xưa  đã đem nghìn vàng đến tạ.
            Chịu ân sâu nặng thì phải tìm cách đền ơn đáp nghĩa,ơn đền nghĩa trả. Tôn giáo và một số triết thuyết khuyên con người dùng ân báo oán (dĩ ân báo oán), tha thứ buông bỏ hận thù. Còn trong cuộc sống thường ngày người ta vẫn chủ trương ân oán phân minh (rạch ròi). Trong Truyện Kiều, sau mười năm luân lạc, Kiều gặp Từ Hải, dựa thế lực Từ để  thực hiện việc báo ân báo oán. Ai giúp một li cũng không quên, ai ác với Kiều  thì phải đền tội kể cả tội chết.
            Ơn là một phạm trù đạo đức, một nghĩa cử trong quan hệ gia đình xã hội bình thường nhưng cao cả và nhân bản. Người xưa thường dạy Thi ân bất cầu báo (Làm ơn há để trông người trả ơn- Nguyễn Đình Chiểu), “Nếu   bạn thi ân thì đừng nhớ nó, nếu bạn thọ ân thì đừng quên nó” (Chu Tử). Thọ ân mà quên là kẻ vô ơn bạc nghĩa, ăn xong quẹt mỏ. Còn thi ân mà đeo theo kể lể thì khác gì biến ơn nghĩa thành  món cho vay để lấy lời suốt đời mãn kiếp người ta. Trong cuộc sống, khổ nhất là hàm ơn, càng tránh bớt cậy nhờ, tránh bớt việc mang ơn người khác thì cuộc sống dù khó nhọc đi nữa vẫn thanh thản tâm hồn.
           

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét