BÚT NGUYÊN TỬ
Ảnh internet
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên
hạ cộng tri thu
Dẫu thu chưa về hay thu đã qua, không thấy
bóng ngô đồng nhưng ngâm nga hai câu cổ thi, lòng ai chẳng mang mang. Hai câu
thơ đã gợi lên, ngân lên trong lòng biết
bao thế hệ thi nhân và người đọc. Mười tiếng đầy ma lực, chỉ vậy thôi mà trường
tồn. Do đâu? Do tác giả nắm được cái tích tắc giao chuyển. Không phải những mà
một, một lá ngô đồng rụng, chi tiết thần kì khơi mở cả mùa thu.
Hình ảnh “ngô đồng nhất diệp lạc” đã thành điển cố văn học phổ biến. Trong
Quốc âm thi tập, điển cố này được Nguyễn Trãi sử dụng rất sáng tạo: “Mấy người ngày nọ thi đỗ, Lá ngô đồng lúc
mạt thu” (Ngôn chí II). Không phải lá ngô đồng rụng báo hiệu thu về, không
phải lá ngô đồng rụng báo hiệu cuối thu mà lá ngô đồng sót lại trên cây trong buổi tàn thu- ít ỏi, hiếm hoi. Nguyễn
Trãi không mượn điển cố này để tả cảnh
thu mà chỉ để ví von, giải bày tâm sự mất mát, đơn độc của mình.
Truyện Kiều có câu: “Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng”, một dấu hiệu chuẩn bị giao
mùa- chớm thu. Và khi Nguyễn Du viết: “Giếng
vàng đã rụng một vài lá ngô” tức mùa thu đã vượt qua tích tắc giao chuyển
để hiện diện. Lá ngô thêm hình ảnh giếng vàng, câu thơ sang quá, “quý phái”
quá! Tác giả không nói một mà một vài
lá. Nói một lặp thơ cũ vừa không hợp. Trong hai câu cổ thi, nếu dùng số nhiều
là thừa và vụng, chỉ một lá rụng giữa mông lung trời đất mà con người vẫn cảm
nhận được mùa thu, một mà lan tỏa vô
cùng, tuyệt vời là vậy. Còn trong câu thơ Nguyễn Du, tuy khung cảnh hẹp hơn,
lá rụng có địa chỉ (giếng vàng), nhưng nói một vẫn không ổn vì nó thành con số
đếm chính xác vô hồn, khiên cưỡng, phải nói “một vài”theo cách phiếm chỉ. “Một
vài” vẫn là ít ỏi không xác định, dẫu không ở tích tắc chuyển mùa thì cũng là
dấu hiệu báo thu sang.
Cao Bá Quát có cách riêng khi vận dụng điển
cố này: “Ngô đồng nhất diệp phiêu kim
tỉnh, Sắt sắt tây phong xuy dạ vĩnh” (Một lá ngô đồng bay trước giếng vàng,
Hiu hắt gió tây thổi đêm dài) (Thiên thất tịch cùng với ông Thận Phu Ứng Giáo
làm ra). Cao Bá Quát vẫn giữ nguyên dạng “ngô
đồng nhất diệp” chỉ đổi một chút, lá ngô đồng đây không rụng (lạc) mà bay
nhẹ (phiêu) trước giếng vàng. Câu thơ bảy chữ, sáu chữ dùng điển cũ, chỉ thay
một chữ mà linh hoạt, nhẹ nhàng, sinh động, mới hẳn lên.
Điển cố “ngô
đồng nhất diệp lạc” không chỉ có mặt trong thơ cổ điển mà hiện diện ngay trong thơ hiện đại, thơ
Bích khê :
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
Điển cũ nhưng hình ảnh sáng tạo, cảm xúc
rất mới. Các thán từ, ngắt câu gợi cả một trạng thái ngạc nhiên như kêu lên.
Hai câu thơ dùng toàn thanh bằng, tạo cảm giác lâng lâng nhè nhẹ buồn buồn của
mùa thu. Cây ngô đồng không còn vô cảm mà vương vất nỗi buồn, lá vàng vương vất
nỗi buồn. Thi sĩ Tản Đà từng viết : “Trận
gió thu phong rụng lá vàng- Lá bay tường bắc lá bay sang- Vàng bay mấy lá năm
hồ hết…” (Cảm thu, tiễn thu). Trận gió- mạnh quá, rụng- dứt khoát quá, lá
bay như chao đảo. Đọc mấy câu của Tản Đà làm ta hình dung trận gió qua, lá rụng
từng loạt, tứ tán, rồi gió dịu, mấy chiếc lá vàng rụng muộn lác đác bay. Tả
cảnh trung thực quá! Nguyễn Khuyến tả: “Lá
vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu)- Lá đưa nhẹ, nghe cả tiếng kêu, không
gian yên tĩnh, cảm nhận tinh tế cảnh sắc. Còn “Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” của
Bích Khê hết sức độc đáo. “Vàng rơi! Vàng
rơi!” như gạt yếu tố thực vật đi chỉ giữ lại tính chất sắc màu, xóa khoảng
cách để thi nhân hòa nhập cùng sự vật. “Vàng
rơi! Vàng rơi!” rất nhẹ như đang diễn ra, lá đang rơi trong nỗi vương vấn,
như gieo thả nỗi buồn xuống mùa thu. “Vàng
rơi! Vàng rơi!” lại vừa như tiếng bật lên từ tâm lòng xúc động của thi nhân
trước mùa thu lan tỏa đất trời.
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên
hạ cộng tri thu.
Từ facebook- Ho Nam Tran Cám ơn Tiểu Hùng Tinh đã gởi bài về cây Ngô Đồng trong thi ca rất thú vị .
Trả lờiXóa6 hrs · Like