TIỂU TỬ VĂN
butnguyentu.blogspot.com
butnguyentu.blogspot.com
Ảnh internet
ĐUÔI (Hán Việt: Vĩ)- danh từ chỉ bộ phận cuối của cơ thể của nhiều
động vật có xương sống. Nghĩa từ đuôi phái sinh thành các nét nghĩa: cuối, sau, xấu
hèn.
Đuôi
cờ có hình dáng dựng chỏng lên- cá đuôi cờ, chó có đuôi cờ coi rất
chướng mắt, có nuôi người ta cũng tìm cách cắt bỏ. Cờ đeo thêm mấy dải ria gọi
là cờ
đuôi nheo. Trước đây, có loại ốc vặn bánh xe đạp hai tai ốc xòe ra gọi
là đuôi
én. Có giai thoại rằng Huy Cận khi viết bài Đoàn thuyền đánh cá ghi: Cá đuôi én quẫy trăng vàng chóe,
người đánh máy đánh nhầm: Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe;
khi đưa bản đánh máy để duyệt lại lần cuối, thấy câu sau hay hơn nên
tác giả giữ theo bản đánh nhầm. Nhầm mà
hay, hiếm!
Phụ nữ miền Bắc xưa có tục bỏ tóc
đuôi gà xem như là nét duyên dáng nhất- Một thương tóc bỏ đuôi gà.
Người Mãn Thanh có tục để tóc đuôi sam. Gà con cỡ mọc
đuôi tôm- sắp tách bầy thường cắn đá nhau rất dữ để phân vị thế, nói Chủ
vắng nhà gà mọc đuôi tôm là thế. Phần mút kèo cũng được gọi là đuôi
kèo, cuối thuyền gọi là đuôi thuyền… Chó và trâu là hai loài vật có khả năng nhớ chỗ
cũ nên chi Lạc đường nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu. Đầu đuôi hàm
nghĩa trước sau, nói có đầu có đuôi tức là nói đầy đủ quá
trình diễn biến, đầu xuôi đuôi lọt hàm nghĩa sắp xếp lúc đầu ổn thì sau sẽ thuận
lợi. Như sừng với đuôi chỉ sự xung khắc. Đuôi- từ Hán Việt là vĩ,
vĩ thanh là phần cuối bài viết, nghĩa như lời cuối.
Xưa có tục sau ngày cưới, chú rể mang lễ về nhà
vợ (nay gọi là phản bái); nếu cô gái còn tân thì trong mâm lễ có đủ đầu và đuôi
heo- có
đầu có đuôi, ngược lại, chú rể sẽ bỏ đi cái đuôi- có đầu không đuôi, ý
trách nhà gái. Trong truyện thơ Trê Cóc, tác giả khuyết danh đã xây dựng một
câu chuyện ngụ ngôn rằng Cóc xuống ao đẻ trứng, trứng nở thành nòng nọc, nhà
Trê hiếm muộn nên chiếm đàn nòng nọc làm con. Cóc tức mình đi kiện, Nhái bén
khuyên rằng cứ chờ đủ tháng đủ ngày nòng nọc đứt đuôi thành cóc con sẽ
lên bờ, lúc ấy đi kiện sẽ thắng. Cóc nghe theo và thắng kiện. Đứt
đuôi nòng nọc còn là thành ngữ chỉ sự tán đồng một cách mê say. Nói cóc mọc đuôi tức là chê chuyện bày đặt vô lí.
Một loạt động tác rất đa nghĩa đi theo từ đuôi:
Bám
đuôi- nối đuôi – bám sát nhau trên đường di chuyển. Theo
đuôi- bám theo người khác; trước đây, nhiều người hay nói năng phê bình
một cách khinh mạt rằng theo đuôi quần chúng, như vậy hàm nghĩa xem quần chúng
là kẻ xấu sao! Cụp đuôi chỉ sự sợ hãi của kẻ dữ, ngoắt đuôi chỉ thái độ
nịnh bợ. Cắt đuôi- chỉ việc loại bỏ, tránh được người bám sát theo dõi
mình trên đường đi. Bây giờ còn chuyện một số kẻ xấu rình nhổ lông đuôi voi thậm
chí cắt
đuôi voi để nhổ lông đem bán (có nhiều người tin rằng lông đuôi voi
giúp gắn kết tình yêu)! Nói (Khen) vuốt đuôi là kiểu nói nịnh,
tán thêm sau lời người khác. Những người có thai thường tránh xa trâu bò vì sợ trâu đập
đuôi làm chậm sinh và nghe đâu trâu đập phết trúng chỗ nào trên người
mẹ thì đứa con khi sinh ra sẽ bị vết đen trên mình như vậy. Tương truyền rằng
khi vồ mồi, cọp đập đuôi bên này thì nhảy sang phía khác, người đi rừng nếu
gặp, cần coi cọp đập đuôi để tránh đòn và ra đòn.
3-
2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét