BÚT NGUYÊN TỬ
ảnh internet
Đoạn trường tân thanh- tiếng kêu đứt ruột, tư tưởng định mệnh mà biểu hiện của nó là thuyết tài mệnh tương đố, tạo hóa ghen má hồng ngự trị xuyên suốt, biểu hiện rõ rệt thông qua Thúy Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Bạc mệnh như một điềm báo bám lấy thân phận Thúy Kiều từ lúc còn thơ: Có thầy tướng số đoán ngay một bài- Anh hoa phát tiết ra ngoài- Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. Như lời nguyền từ cõi vô minh, bạc mệnh ăn sâu vào tính cách, đưa đẩy nàng giao tiếp, cảm thông sâu sắc với cả những số phận éo le đau khổ ở thế giới bên kia mà tiêu biểu nhất là với bóng ma Đạm Tiên, từ gặp gỡ trong hội thanh minh đã báo cho biết Kiều cùng hội Đoạn trường, có tên trong sổ Đoạn trường đến khi nhảy xuống sông Tiền Đường, Đoạn trường sổ rút tên ra mới dứt.
Con người tài hoa Thúy Kiều đã thể hiện tư tưởng bạc mệnh thành cung đàn Bạc mệnh, hòa nhập hòa điệu rồi hóa thân cuộc đời mình vào tiếng đàn. Cung đàn là sự kết hợp, dựa vào cung bậc xưa, lấy khúc điệu nổi tiếng cổ điển làm nền tảng: So lần dây vũ dây văn- Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương, Khúc đầu Hán Sở chiến trường… Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu… Kê Khang này khúc Quảng Lăng- Một rằng Lưu thủy hai rằng Hành vân… Quá quan này khúc Chiêu Quân… Cả một hệ thống bài bản âm luật phong phú được tiếp nhận nhưng điều đặc biệt nhất đó là tài biến hóa, thể hiện tinh hoa tài tử của mình, biến sở học âm nhạc hàn lâm kia thành sở tài, thành tột đỉnh tinh anh, thành sở đắc, biến những khúc nhạc phổ biến thành khúc nhà riêng biệt đặc sắc của mình: Cung thương làu bậc ngũ âm- Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương, Khúc nhà tay lựa nên xoang- Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân. Một cô gái sắc nước hương trời, tài hoa tột đỉnh gắn bó không rời với cung đàn có tên Bạc mệnh, cung đàn đi suốt mười lăm năm luân lạc để cất tiếng Đau đớn thay phận đàn bà- Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phím đàn dìu dặt tay tiên, âm thanh quyện hòa rồi biến hiện, từng khúc nhạc vang lên dẫn người nghe qua từng cảnh ngộ, hết trạng thái này sang trạng thái khác. Khi là tiếng sắt tiếng vàng chen nhau rộn ràng trên chiến trường hủy diệt, khi như oán như sầu trong cuộc tình trái ngang, khi như nhớ nước thương nhà, quyến luyến trong cảnh chia lìa. Ngón đàn uyển chuyển, âm điệu phong phú, bổng trầm to nhỏ theo vần cung thương, lúc như nước chảy- Một rằng Lưu thủy, lúc tựa mây bay- hai rằng Hành vân… Bởi mang sẵn tâm thế bạc mệnh, là khúc bạc mệnh nên trong hoàn cảnh nào kể cả khi gặp gỡ hội ngộ tiếng đàn đều toát ra nỗi buồn, Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
Tinh hoa khí phách thu vào khúc Bạc mệnh, đánh lên như thức tỉnh cả thiên nhiên, có âm thanh trong trẻo có âm thanh rộn ràng, có tiếng nhanh tiếng chậm, âm lượng nhỏ to, âm giai trầm bổng khơi gợi không gian sống động, rõ thực bàn tay tiên xoay đổi âm thanh, biến chuyển cả đất trời: Trong như tiếng hạc bay qua- Đục như nước suối mới sa nửa vời- Tiếng khoan như gió thoảng ngoài- Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. Dùng biện pháp so sánh, áp các cặp từ đối lập làm cho tiếng đàn toát lên nhiều cung bậc, bật lên nhiều sắc thái khác biệt, lôi cuốn. Ở đây Nguyễn Du đã mượn và có biến đổi ý tưởng của Lý Kỳ trong bài Cầm ca: Sơ nghi táp táp lương phong động- Hậu sự tiêu tiêu mộng vũ linh- Cận nhược lưu truyền lai bích chướng- Viễn như huyền hạc hạ thanh minh (Lúc đầu ngỡ như gió mát thổi rì rào, Sau lại cho là mưa chiều rơi rào rạt. Gần như suối đổ trên vách núi xuống, Xa như tiếng hạc vẳng tận trên cao). Âm thanh tiếng đàn từ Lý Kì được Nguyễn Du Việt hóa, đẩy lên mức điêu luyện tuyệt vời.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ, sự vật chung quanh biến hiện, có phải thủ thuật luyến láy, độ rung âm thanh lay động sự vật làm chao đảo không khí, dao dộng ánh sáng? Không ! Ma lực này thực ra xuất phát từ tận trong sâu thẳm, từ linh hồn của tiếng đàn làm chuyển đổi tinh thần, hút hồn người nghe, nhập thần vào tiếng nhạc, say trong thế giới âm thanh, cuốn vào bi khúc Bạc mệnh đoạn trường.
Kiều đánh đàn nhiều lần, nào Ép cung cầm nguyệt khi bán mình, nào Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa khi ở chốn thanh lâu, nào Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn khi gặp gỡ Thúc Sinh, nào lựa dây- Nỉ non thanh thót dễ say lòng người khi làm hoa nô nhà Hoạn Thư, chỉ bấy nhiêu cũng đủ nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kì. Thế nhưng tất cả chỉ được Nguyễn Du nhắc sơ, tả lướt, chỉ bốn lần (hai lần cho Kim Trọng- gặp gỡ và tái hồi, một lần cho vợ chồng Thúc Sinh và một lần cho Hồ Tôn Hiến) là các cao điểm mà khúc Bạc mệnh với ngón đàn linh diệu đầy ma thuật biểu hiện trọn vẹn.
Lần đầu cho đánh đàn cho người tình nghe khi đang thắm tình đôi lứa, đàn bằng cảm hứng nóng bỏng lứa đôi nhưng đã truyền đi âm hưởng bạc mệnh, chảy từ nguồn mạch đoạn trường. Tiếng đàn gặp tri âm, Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu. Kim Trọng như lạc hồn, tới mức Khi tựa gối khi cúi đầu- Khi vò chín khúc khi chau đôi mày, thấm đẫm từng thanh âm, đau theo từng tiết tấu rồi nhận xét: Rằng hay thì thật là hay- Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào. Chính tri âm Kim Trọng đã nghe ra, linh cảm được ma lực đoạn trường ẩn trong tiếng nhạc: Dọt lòng mình cũng nao nao lòng người.
Sau mười lăm năm luân lạc, kẻ nổi trôi người tìm kiếm rồi Kim Kiều tái ngộ, tiếng đàn lại cất lên trong cảnh đoàn viên, oan trái hoạn nạn không còn, Đoạn trường đã rút tên ra, âm khí tan đi, dương khí dần phục hồi, tiếng đàn ấm lại: Khúc đâu đầm ấm dương hòa, Khúc đâu êm ái xuân tình, Trong sao châu dỏ duềnh quyên- Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông. Sinh khí trở lại, thế nhưng âm vang bạc mệnh kia dẫu có chìm lắng cũng chưa tan hẳn, vẫn còn vương vất: Lọt tai nghe suốt năm cung- Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
Khi hầu rượu vợ chồng Thúc Sinh Hoạn Thư trong cảnh trớ trêu nghiệt ngã, tiếng đàn Kiều đã như khóc như than- Khiến người trên tiệc
cũng tan nát lòng. Dù có đóng kịch phân thân, giả vui thật buồn, lấy
người giả ngoài che người thật trong thì cuối cùng Thúc Sinh cũng
không thể chịu đựng,
không sao che giấu được nỗi
niềm đau thương tột độ: Giọt
châu lã chã không cầm- Cúi đầu chàng
những gạt thầm giọt Tương. Còn
Thúy Kiều, bị đày đọa, bị bêu như trò chơi, mới là tiểu
tinh (vợ bé) đột ngột trở thành
kẻ hầu, bị đày cho đau đớn ê chề, nhìn chẳng được nhau, làm
cho để
một trận cười về sau, nàng càng thấm nỗi
đau định mệnh, đau nỗi
đau số phận trớ trêu đã bật
thành tiếng đàn than
khóc.
Khúc đàn bạc mệnh cũng lay động được cả mặt sắt phương diện quốc gia. Giết Từ Hải, Hồ Tôn Hiến ép Kiều đánh đàn. Có người cho rằng quan tổng đốc trọng thần chỉ tài diễu võ nhưng dốt văn nên so tiếng đàn với tiếng vượn tiếng ve: Ve ngâm vượn hót nào tày, rõ tay rừng rú! Nhưng dẫu chai sạn sắt đá cỡ nào cũng bị tiếng đàn lay động: Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Bốn lần Thúy Kiều đánh đàn, lần gặp gỡ Kim Kiều Nguyễn Du tả 18 câu thơ, lần tái hợp 10 câu, lần hầu rượu Hoạn Thư 6 câu, lần hầu đàn cho Hồ Tôn Hiến ít nhất- 4 câu. Gảy cung đàn Bạc mệnh cho người yêu cũng là tri âm Kim Trọng, nàng So dần dây vũ dây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương… Phím đàn dìu dặt tay tiên, Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa… sau đó lần lượt các khúc nhạc cất tiếng, diễn biến thăng hoa. Khi gảy đàn hầu rượu cho Hoạn Thư tác giả nêu gọn Cùng trong một tiếng tơ đồng, trong buổi hầu rượu Hồ Tôn Hiến cũng tả lướt Một cung gió thảm mưa sầu, kế đó là thái độ của người nghe, không chút mô tả nội dung. Thế nhưng, đây là hai lần tâm trạng tập trung đau đớn nhất, bi thương cao độ nhất. Đánh đàn cho vợ chồng Thúc Sinh: Bốn dây như khóc như than là tiếng đau thương của con người thì đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe: Một cung gió thảm mưa sầu, nỗi đau như bao phủ đất trời. Bốn dây như khóc như than, nỗi đau đớn khi hầu rượu Hoạn Thư hiện bằng âm thanh (khóc, than) với hình ảnh (bốn dây đàn)- Đàn và tiếng khóc! Đến khi đánh đàn cho Hồ Tôn Hiến thì âm thanh như bặt đi, chỉ còn hình ảnh Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay- Đàn và máu! Vượt lên tất cả âm thanh, vượt qua mọi tiếng kêu than, chỉ còn hình ảnh rỏ máu, âm thanh của cung đàn Bạc mệnh hóa vô âm, khổ đau hiện hình, khốc liệt tột độ, trần trụi tột cùng.
Nỗi xót
xa với tư tưởng
định mệnh như một thứ quy luật trong bể khổ cuộc đời đã
dẫn dắt, chi phối tác phẩm, hiển hiện qua tiếng đàn. Tiếng đàn của Thúy Kiều là gì, đó là tiếng tơ
lòng nhuốm nỗi đau bạc mệnh trước cảnh đời ngang trái. Tiếng tơ
lòng vang vọng đau thương đó lại
chính là tiếng thơ, thơ về nhạc. Ở
đây, ta không nghe tiếng nhạc, không được
tiếp xúc với những thang âm điệu
thức vật lí nhưng thơ đánh thức những thanh âm trong tận cùng sâu thẳm tâm hồn, chính ngôn từ nghệ thuật
đã hòa quyện, thấm đẫm linh
hồn âm nhạc, gợi cho ta thấm thía nỗi đau cuộc đời, cảm thông với từng
số phận.
22-10-25
------------------------------------
NGUYÊN VĂN ĐỂ TIỆN THAM CHIẾU- 4 LẦN THÚY KIỀU ĐÁNH ĐÀN
1. Lần thứ nhất là Kiều đàn cho Kim Trọng nghe
So dần dây vũ dây văn- Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương
Khúc đâu Hán Sở chiến trường- Nghe ra tiếng sắc tiếng vàng chen nhau
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu- Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng Lăng- Một rằng Lưu Thủy hai rằng Hành Vân
Quá quan này khúc Chiêu Quân- Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia
Trong như tiếng hạc bay qua- Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài- Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ- Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối khi cúi đầu- Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
2. Lần thứ hai là Kiều đàn cho Hoạn Thư nghe
Bốn dây như khóc như than- Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng
Cùng trong một tiếng tơ đồng- Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm
Giọt châu lã chã khôn cầm- Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương
3. Lần thứ ba là Kiều bị ép hầu đàn cho Hồ Tôn Hiến sau khi Từ Hải lâm chung
Một cung gió thảm mưa sầu- Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm vượn hót nào tày- Lọt tay Hồ cũng nhăn mày rơi châu
4. Lần cuối là Kiều lại đàn cho Kim Trọng nghe sau mười lăm năm tái hợp
Phím đàn dìu dặt tay tiên- Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đầm ấm dương hòa- Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh
Khúc đâu êm ái xuân tình- Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên
Trong sao châu dỏ duềnh quyên- Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông
Lọt tai nghe suốt năm cung- Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao

25-10-25, Lan Hương, Hùng ơi, Hùng chọn đề tài để khai thác rất hay. Như Hùng đã viết, đọc ĐTTT, có thể thấy Kiều đánh đàn nhiều lần. nhưng tập trung phân tích cái gọi là cung đàn bạc mệnh - tương ứng với cuộc đời chìm nổi của Kiều qua 15 năm đoạn trường, Hùng đã tập trung vào 4 lần Kiều đánh đàn để giải mã vấn đề, để làm rõ tư tưởng định mệnh đã chi phối thân phận con người. Có chi tiết Hùng viết mà mình rất thích đó là so sánh tiếng đàn của Kiều khi hầu rượu vc TS- HT và khi hầu rượu HTH để nâng cấp nỗi đau khốc liệt của Kiều đến mức âm thanh của cung đàn bạc mệnh cũng hóa vô âm. Mình đọc thấy thấm thía quá! Còn một ý nữa Hùng cho một cái kết khép lại bài viết thật khéo, nói nhẹ nhàng thôi mà bằng ngàn lời ngợi ca cái Tài và cái Tâm của tác giả. Một vài ý thô thiển của LH , mong được đọc thêm những bài mới của Hùng .
Trả lờiXóaChau Văn Phú, Đọc bài Hùng Bng tử hay sâu sắc lắm.
Alex Tran-Hay qua' ♥️
3-11-25, Dương Lê Hồng- Có lẽ cần bái phục Tố Như về đôi tai âm nhạc và tài năng miêu tả nội tâm đa dạng mà thống nhất của tính cách nhân vật "tài hoa bạc mệnh" bằng việc miêu tả âm thanh tiếng đàn TK trong những cảnh ngộ khác nhau của một tâm hồn đa sầu đa cảm nằng một sự đồng cảm của một nghệ sĩ có số phận cũng chìm nổi lênh đênh bạc mệnh như nàng Kiều. Có lẽ cũng nên ss với cách miêu tả của TTTN để làm nổi bật tài hoa của ND.?