NGUYỄN VĂN HÙNG (Nguyễn Hoàng 1963- 1970)
ảnh internet
CON VỊT CỌT
Năm 1963, thi đậu đệ thất, tôi được vào học trường
Nguyễn Hoàng, ngôi trường mơ ước của không biết bao nhiêu học sinh thời đó.
Trường Tiểu học An Phú (xã Triệu Tài) của tôi có một lớp Nhất khoảng ba chục
bạn người hai làng An Hưng và Phú Liêu
nhưng chỉ một mình tôi đậu, thời bấy giờ có người gọi thi tuyển này là thi
công-cua (concourt), vinh dự nhưng lo âu lắm vì chuyện học hành thời đó căng
thẳng, khó khăn . Nhà nghèo nông thôn, phần lớn các bạn tôi đều dừng trước ải
học, đi giữ trâu làm ruộng hoặc học nghề, vài ba người gia đình khá giả thì cho đi học trường tư Bồ
Đề, Thánh Tâm.
Trước khi thi, tôi học hè luyện thi
với anh Đối vừa đỗ Diplome (Trung học), người
có học lực cao nhất trong làng. Anh Đối chỉ luyện môn Toán còn Luận (Làm văn) và Thường thức thì tự ôn. Các
bài toán khó trong các sách mấy trăm bài luyện thi, sách Trần Tiếu tôi đều giải
bay, không chịu một bài nào. Anh Đối thường cho những bài toán thực khó rồi
hướng dẫn gợi ý riêng cho từng đứa nhưng với tôi, anh biết tôi tự lực giải được
nên thử sức, không bảo. Đi đâu, gặp ai
anh cũng khen tôi giỏi, chắc chắn đậu. Tôi mừng nhưng thật quá lo, lỡ hỏng một
cái thì chết. Một đứa trẻ con mà phải gánh một trọng trách thi cử quá lớn, một
thử thách quá lớn, điều này cũng khổ thật nhưng nhờ vậy mà tự trưởng thành biết
bao nhiêu.
Mấy người đi thi trước thường truyền
cho kinh nghiệm rằng thi cồng - cua, người
ta lấy từ cao đến thấp cho đủ số nên chi đừng cho đứa khác xem
vì nó đậu thì mình có thể hỏng, cứ làm bộ như mình làm bài không được
kẻo nó châu vào xem, không cho xem nó rảy mực làm hỏng bài. Làm bài được hay
không thì chưa lo nghe chuyện bị rảy mực
mà lo. Vào thi và cũng biết bao nhiêu kì thi nào có chuyện rảy mực gì đâu, hơn
nữa còn có giám thị coi thi, sợ gì, rõ chuyện dọa trẻ con nhưng cũng làm cho
mình e ớn.
Vào thi, môn Luận tôi làm suôn sẻ. Môn
Toán có hai bài, một bài phân số và một bài hình học, bài phân số dễ nhưng lại
bí, không giải được, bài hình học hóc búa nhất nhưng lại giải ra. Thi ra, nghe
tôi bảo chịu bài phân số, ai cũng ngạc nhiên, nhiều phụ huynh ở các nhóm khác
nhau phải kéo tôi lại nhờ giải bài hình học. Tôi đậu thứ 146/250, loại trung
bình, có điều đậu thôi, dẫu là đậu chót cũng oai rồi, thi tuyển vào học mà, cần
gì phải đậu cao (không như ngày nay người ta tấn phong thủ khoa đầu vào).
Thi đỗ, gia đình tôi có làm lễ ăn
mừng, cũng xôi bánh thịt thà mời bà con anh em, tế cáo với tổ tiên. Chuyện thi
đậu tưởng chỉ chuyện riêng mình, chuyện của một đứa trẻ con nào ngờ trở thành vấn đề quá lớn, gia đình bà
con kì vọng vào, nghe hai tiếng ăn mừng mà mắc cỡ. Nhỏ tuổi nhưng tôi cũng phải
nghẹn họng xấu hổ khi giữa đường có một
người cố ý mỉa cho nghe: “Cả làng hỏng, mình nó đậu thôi thế mà cũng ăn mừng!”
Gần ngày nhập học, từ chỗ học tiểu học
chỉ cần hai quyển, một quyển ghi bài học một quyển làm bài tập bây phải mua một
chồng mười mấy quyển vở và nghe tên các môn lạ hoắc thật là hồi hộp. Vào Nguyễn
Hoàng phải mặc đồng phục quần xanh áo trắng có thêu họ tên và lớp trên túi.
Trung học đệ nhất cấp (thất, lục, ngữ, tứ) thêu chữ đỏ, đệ nhị cấp (tam, nhị,
nhất) thêu chữ xanh. Trong nhà không chị nào biết thêu, phải nhờ o Thỏn trong
xóm thêu giúp. Áo phải bỏ vào quần, phải có dây nịt, đi dép có quai sau. Loại
dép nhật (sau 1975 gọi là dép lào) bị cấm vì xem đây là dép dùng trong phòng
ngủ, không lịch sự. Giàu thì sắm sandal, mình nghèo, nhà sắm cho đôi dép bố
(dép địu) loại cắt gọt vụng về rẻ tiền, lại nữa phòng tuổi mau lớn nên mua trừ
hao đôi dép dài hơn bàn chân.
Tôi vốn nhỏ con cặng cọt nay phải
thắng một bộ quần áo rộng rinh, chân mang đôi dép thô kệch quá khổ, lại nữa anh
tôi còn sắm cho cái mũ nhựa đài loan phủ đến tận vai, lút hết mắt mày, cỡi lên
chiếc xe đạp có cái ghi-đông hình chữ U ngày ngày đạp đi học. Trong đoàn học
sinh từ làng tôi sớm sớm đạp xe lên tỉnh học thì tôi nhỏ nhất đạp cọc cạch theo
đoàn. Ngày đầu tiên trên đường đến trường, bị bọn học sinh tiểu học ở Bích La
Đông chế nhạo, thằng Vinh oắt con trong bọn gọi tôi là “Con vịt cọt! Con vịt cọt!” rồi cứ thế la toáng lên chọc ghẹo. Cứ
thế, mỗi sáng đi học, gặp bọn này, tôi
lại trở thành mục tiêu chọc ghẹo. Khổ tâm xấu hổ tức tối lắm nhưng biết làm
sao. Cứ hình dung con vịt đèo (cọt) lệt bệt theo đàn với hình ảnh tôi nhỏ nhoi
ẹo qua ẹo lại đạp xe theo đoàn học sinh mà đứa nào cũng lớn ngồng mới thấy cái
biệt danh nó đặt cho mình thật đắc địa, xuất thần. Từ đầu đến chân nào nón nào
áo quần tất cả đều quá khổ với tôi, có lần chính anh Đối giỡn bảo: “Coi Hùng giống ông Hường quá!”, cả đoàn
học sinh làng tôi cười ồ cứ thế lan truyền. Ở làng Nại Cửu có ông Hường, người
nhỏ thó, đầu đội mũ đài loan, ngày nào cũng đạp xe lên tỉnh làm thợ cưa. Sự ví
von này kể cũng độc đáo và độc địa. Tôi thường bị bạn bè gọi là ông Hường, có
đứa còn chế tôi từ Văn Hùng thành Văn Hường (thực ra không phải ví với danh hài
Văn Hường mà ví với ông Hường thợ cưa), tức lắm đến nỗi có lần phải đánh lộn.
II.
ĐƯỜNG ĐẾN TRƯỜNG
Làng tôi: Phú Liêu. Từ làng đến trường hơn bảy cây số,
phải đạp xe men theo bờ sông Vĩnh Định qua Bích La Đông, qua Nại Cửu, qua Ba
Bến, Trí Bưu mới tới tỉnh. Ngày tôi đi học, trong nhà sắm thêm cái đồng hồ lớn
nhưng đồ cũ nên chạy không chính xác, hai bữa phải đem qua nhà khác xem nhờ
đồng hồ để chỉnh lại giờ. Nhà xa trường,
đồng hồ không bảo đảm, tôi vốn đã hay lo càng thêm phấp phỏng, luôn sợ trễ giờ,
bị giam ngoài cổng hoặc lên phòng giám thị xin giấy vào lớp. Buổi sáng ngủ dậy
thường hoảng hốt vì sợ trễ học. Cũng có khi lo quá, đi học quá
sớm bị các đứa khác chế diễu là “đi bán
bánh mì”.
Đường đất, trời nắng còn đỡ , cực nhất là trời mưa,
một đứa trẻ con vật lộn với cái rét cái lạnh, vật lộn với đường bùn lầy cả bảy
cây số đạp xe tới trường. Nhiều chỗ lầy quá, xe sục bánh đạp không tới, có chỗ
xe xoay bánh tại chỗ, đứng chống chân xuống thì sụp dép địu mắc quai xuống bùn
kéo lên không lên. Những ngày trời quá lạnh, dậy sớm là cực hình, ước gì không
đi học mà ngủ một giấc cho thỏa thê. Ở làng tôi cũng có anh ngủ nướng buổi
sáng, trễ học không dám lên phòng giám thị xin phép, bỏ học nhiều ngày sợ thầy
gọi lên đọc bài rồi nghỉ luôn.
Trời mưa lụt, đường về làng bị tắc, tôi phải ngủ lại
nhà người bà con trong họ. Ở nhà người ta hoài cũng ngại, có lần Công (học trên
tôi một lớp) rủ tôi ngủ lại trong trường. Hai đứa cứ giữ nguyên áo mưa thay
mền, ráp hai cái bàn lại rồi lên nằm ngủ, sáng ngày học tiếp. Có lần trời mưa
lụt, ở lại khó lòng, tôi quyết về nhưng nước lụt lớn và chảy xiết quá vác xe lội
không nổi, phải vào nhà thằng Thuyết bên đập làng Bích La Đông xin ở lại mấy ngày.
Thị xã Quảng Trị là vùng đất cao, ở vùng tôi nước lụt
ngập nhà ngập cửa nhưng ở đây không hề hớm gì. Trong suốt bảy năm học Nguyễn
Hoàng, chưa bao giờ nhà trường cho học sinh nghỉ học vì lụt cả. Còn bây giờ, do cái đập Trấm mà cứ lụt là thị xã ngập
hàng thước nước.
Mưa lầy, nắng bụi, nhất là những ngày gió nam, gió
quật bụi vào mặt xô lại, bườn xe không tới. Dọc đường Góc Bầu- Trí Bưu- Ba Bến- Ngô Xá
thời đó thường có xe lam chở khách, chủ yếu là những người bán cá, xe nồng mùi
cá, nén chặt người, chạy ì ạch. Những ông tài xế giang nắng cả ngày mặt mày
cháy sém trông rất dữ. Có lần thằng bạn tôi rình níu vào sau xe cho đỡ đạp bị
ông tài xế phát hiện, dừng xe, quát tháo định quật cho một trận, hú vía!
Học trò nhà quê, gia đình phải chắt bóp tốn kém lắm
mới sắm cho được chiếc xe đạp, có đứa
nhà quá nghèo sắm không nổi phải đi bộ như Hiếu (Phú Liêu), tội lắm! Xe thường
là xe cũ, sửa chỗ này hư chỗ khác, hỏng hóc thường trực nhẹ thì xìu bánh trật
sên, nặng thì quẹo vành gãy sườn. Nghèo khó quá, không ích kỉ cũng thành ích
kỉ, xe đứa nào cũng tháo bọt-ba-ga (yên sau), để không chở thì cù lần mà
chở thì hư xe, nghĩ cũng là một cách
phòng ngừa từ xa đã được áp dụng thuở thiếu thời. Đường quê dốc dằn, lắm gai
tre, xe thủng xe xìu liên tục, gắn ống bơm vào xe thì sợ bị ăn cắp. Gặp sự cố
xìu thủng thì cứ việc dắt hàng cây số về nhà tự bơm vá. Có thể nói người ghét
bọn học trò nhất là các chủ tiệm sửa xe đạp. Khi nào cũng có bọn học trò bâu vào xin mượn ống bơm,
mượn cái kềm cái búa, gặp cái loại khách hàng kiểu ăn mày này thì có nước sấp
tiệm. Nhiều tiệm ghét quá, để sắn cái ống bơm hư cho mượn còn cái tốt cất vào,
chỉ phục vụ cho khách có tiền. Thẩy cái ống bơm hư cho mượn khác gì đuổi, biết
người ta đuổi nhưng không chịu rời vì biết đi đâu, bọn học trò nhà quê rỗng túi này đâu có ngán,
tìm cách xoay xở bơm đi bơm lại cho
được. Xong, lịch sự cám ơn, cỡi xe lên đường. Cùi mà, sợ gì lở!
Mình nhỏ, đi học có đoàn thì không sợ chứ đi riêng lẻ
thì cũng ngán vì bọn trẻ dọc đường dọa. Đi qua làng Nại Cửu, tôi thường bị một
đứa nhỏ hơn dẫn đầu một lũ nhóc chọc kẹ hoài, chịu không nổi, có lần tôi dừng
xe thách đánh. Thẩy tập vở qua một bên, tôi nhào vào định đấm cho nó vỡ mặt
nhưng lần nào cũng hụt lại bị nó thoi liên tiếp vào ngực, dính thêm mấy cú đá
của nó vào bụng. Đánh không nổi, tôi tuyên bố thôi. Nó cũng ngừng. Cái hay là
từ đó nó và bọn nhỏ đi theo không bao giờ chọc tôi nữa. Té ra muốn hòa bình đôi
khi cũng cần chiến tranh, không đánh một trận không xong.
Thuở học tiểu học, lớp tôi có mấy đứa cùng làng lớn
tuổi to con, không đánh nhưng đứa nào
cũng sợ, tôi thường rình đánh một đứa khác làng rồi chạy nấp sau lưng những đứa
to con, thế là an toàn. Nay đi học đường xa, trong làng có mấy đứa to khỏe như
Thạnh, học sinh làng khác cũng không dám dọa. Có lần thằng Công bạn tôi bị
thằng Đà người đâu miệt Ngô Xá dọa. Công
đem chuyện mách với Thạnh, Thạnh không nói không rằng đạp xe đi ngang qua, thoi
cho thằng Đà một phát ngã ngang, mắng “Sao
dám dọa thằng Công làng tao”. Có lần cũng thằng Đà chạy lơ đễnh tông xe làm
đổ gánh một bà đi đường, bà ta níu lại làm dữ bắt đền. Thằng Đà hoảng hốt chưa
biết làm sao thì Thạnh đi ngang, dừng lại làm ra dáng đàn anh kẻ cả mắng Đà một
trận rồi khéo léo xin lỗi. Bà đi đường cảm thấy hả dạ nên tha cho mà tiếp tục
đạp xe tới trường. Mối thù được hóa giải, thằng Đà trở nên thân thiết với
Thạnh.
Chiến tranh có mòi lan rộng, từ 1962 một căn cứ quân
Mỹ được xây dựng sát bên trường, sợ bị ném tạc đạn nên con đường Duy Tân phía
trước trại Mỹ bị rào ngăn lại bắt xuống
xe dắt bộ. Dắt bộ chưa đầy trăm mét nhưng mà nhục, thế là bọn học sinh không đi
đường này nữa mà vòng ra Lê Văn Duyệt- Gia Long- Trần Hưng Đạo rồi Lý Thái Tổ dài hơn cả cây số đến trường.
Từ ngày có căn cứ Mỹ, một góc sân vận động bị lấy làm bãi đáp trực thăng, máy
bay lên xuống liên tục, mỗi lần vậy thầy phải ngừng giảng. Từ phòng học nhìn
qua thấy mấy cô gái làm sở Mỹ, bọn học sinh cứ thế ê lên chọc. Cứ khoảng cuối
buổi chiều, lúc bụng dạ cồn cào là lúc mùi chiên xào thơm lựng bay qua hành hạ,
đứa nào cũng nín thở rồi hít, thơm quá nhưng không dám nói ra sợ bị chê hạ cấp.
III.
TRUNG HỌC ĐỆ NHẤT CẤP
Học sinh đậu được phân
vào năm lớp đệ, thất 1, thất 2, thất 3 theo sinh ngữ Anh, thất 4, thất 5
theo sinh ngữ Pháp. Tôi vào đệ thất 2 , cứ thế lên lục 2, ngũ 2, tứ 2 từ
1963-1967. Môn học nhiều, học theo giờ (tiết). Lớp tôi do Trịnh Lăng (bạn bè
thường trêu là Đinh Lăng- tên nhân vật trong bài Đồi thông hai mộ) hiền từ làm trưởng lớp, sau này Nguyễn Văn Nông
(nay ở Bảo Lâm) thay. Lớp toàn nam nên nghịch ngợm hàng số một. Trong lớp có
nhiều bạn học giỏi như Nguyễn Thái (thi băng Tú tài 1 mà đỗ hạng Bình thứ, bác
sĩ ở Đắc Lắc), Lê Tây (An Lợi, tiến sĩ, ĐH KHNV Tp Hồ Chí Minh) …Học loại chiến
cũng nhiều như Võ Mẹo (Trâm Lý, cử nhân Hóa), Lê Quang Bình (cao học Vật lí),
Trần Trinh (thi băng đỗ Tú tài 1, ĐHSP Lí hóa), Lê Núng (Nhan Biều), Lê Thọ
Khánh…Nổi trội về Anh văn có Ngọc Hùng (ĐHSP Anh văn), Giỏi Toán mà ba gai phải
kể đến Hoàng Văn Thành (nghe đâu đang làm cho Việt Book tại Đà Lạt), người thì
thấp lùn mà nghinh ngang dám gây sự dọa nạt cả học sinh lớp lớn. Trong lớp, nó
biết tên cha mẹ đứa nào, hoặc biết gia đình đó làm nghề gì là đến đầu buổi điểm danh hắn cứ thế réo,
không đáp “có” thì sợ nó đánh vắng đành phải cắn răng hô “có”. Lên đệ thất rồi
mà chưa bỏ thói trẻ con, còn rình xem tên cha mẹ bạn mình để khi cần thì
“chửi”. Lê Xuân Quảng ngồi cạnh tôi, lần nọ khai hồ sơ (kiểu sơ yếu lí lịch),
Quảng điền rồi chìa ra cố ý cho tôi xem tên cha là Lê Xuân Nảy, mẹ là Dương Thị
Ồ, thực ra chỉ gần giống tên cha mẹ Quảng. Giận réo lên chắc nó vẫn tươi cười,
đúng là ông Quảng này có cách phòng chống chửi từ xa hiệu quả. Tôi đã nhỏ con
thế mà có mấy đứa còn “oắt” hơn như Ngọc Hùng, Dẫn, Tạo…, chúng được sắp ngồi
bàn đầu. Nghịch trẻ con nhất là Ngọc Hùng (định cư ở bang Cali, Mỹ) và Dẫn, thầy cho nghỉ chơi tại chỗ,
hai đứa rủ nhau núp xuống bàn đầu, cứ thế thằng Dẫn vạch quần tè ngay xuống nền
gạch, đúng là thầy cũng chạy chúng mày. Thằng Bùi Hữu Bàng con ông Bùi Hữu Duệ phó tỉnh trưởng có năng khiếu vẽ hình cao bồi như trong các bảng quảng cáo xi-nê, học đâu được một năm rồi chuyển đi biệt. Ba trợn nhất lớp phải nói đến Nguyễn
Trì, dù chưa đánh ai nhưng trong lớp đứa nào cũng sợ nó, nó trong băng nhóm ba
gai. Nghịch phá bị thầy đuổi ra, anh ta len lén lại cửa sổ nháy thằng bạn bên
trong thẩy quyển vở ra, thế là chuồn biệt luôn, liên tục vậy. Đứa đô con nhất
lớp là Lê Cảnh Phong (Bích La Đông, hiện ở Cần Thơ), học đến lớp đệ ngũ thì lập
gia đình, giấu biệt nên trong lớp không biết, chỉ phong thanh nghe nó có bồ. Ham vợ quá nên vừa lên đệ Tam là đã giả từ bút nghiên đi trung sĩ. Nó còn kể rằng buổi học cuối cùng nó còn cuỗm luôn quyển số điểm danh đệ Tam B4 (1967-68), còn giữ đến bây giờ (2014) làm kỉ niệm! Thằng Hồng cao nhất lớp, có lần
giám thị xuống kiểm tra tác phong, tôi không có bảng tên nên bị đưa ra ngoài.
Thằng Hồng, nó có bảng tên nhưng kéo ra ngoài được mà lật giấu vào bên trong
cũng được, vào trường thì bày ra, ra khỏi trường thì thu giấu vào túi (chắc vì
nó mắc cỡ, lớn ngồng mà còn học đệ nhất
cấp), nó bị tôi tố với giám thị. Giám thị đến kiểm tra, bảo người ta có bảng
tên đàng hoàng. Tôi bị giám thị phạt đã đành, cuối giờ còn bị thằng Hồng tát
cho một cái nảy lửa. Tao thực sự xấu hổ
và cảm ơn cái tát của mày đó Hồng, cái tát trị thói mách lẻo và cũng nhờ cái
tát của mày mà sau này dù thời thế có đưa đẩy tao vẫn nhờm tởm và tránh xa được
thói xoi mói điềm chỉ.
Nhà nghèo, có cơm ăn đi học là quý, ra quán rơ- tông
(banh tay) mê thật nhưng không sao có được một đồng mua bốn cái thẻ tròn bỏ vào
mở khóa, đành vẩn vơ hồi hộp xem bọn chúng đá, lâu lâu xin đá vài quả banh lẻ.
Cứ ra chơi là một số đứa có tiền ùa vào các quán bánh kẹo của các ông phu
trường mà ăn, hút thuốc. Nhiều thầy giáo cũng bức xúc việc nhà trường cấm học
sinh ăn quà vặt trong khi nhà phu trường cứ bán, mâu thuẫn quá, nhưng rồi thầy
cũng phải chua chát nói một câu cho tận cùng kì lí là không cấm được vì họ có
quyền bán cho người ngoài (có điều người ngoài đâu có vào trong trường được mà
mua)!
Cái năm tôi học đệ thất cũng là năm có sự biến Dương
Văn Minh đảo chính Ngô Đình Diệm, học sinh
các lớp đệ nhị cấp tổ chức kỉ niệm văn hào Nhất Linh, một tác giả chính
trong chương trình Việt văn mà chúng tôi được học thông qua những tác phẩm hết
sức cảm động là Anh phải sống, Nhặt là bàng và sau này là Đoạn tuyệt. Chào cờ xong, là các học sinh lớp trên đăng đàn mời tất
cả giáo sư và học sinh cùng dự, đọc tiểu sử, lên án chế độ Ngô Đình Diệm, nhắc
lại câu nói “Đời tôi để lịch sử phán
xét…” của Nhất Linh. Mới thấy học sinh các lớp đệ nhị cấp thời bấy giờ
trưởng thành ghê lắm. Ở Quảng Trị, sau
khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, bên cạnh chính quyền dân sự có thêm một đại diện
của Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Có lần trời mưa tầm tả, vừa đạp xe tới trường
thấy học trò không vào học rồi thấy băng cờ khẩu hiệu ầm ĩ, chưa biết chuyện gì
thì thằng Công học đệ lục bảo thầm là đi biểu tình đả đảo ông Tỉnh trưởng, hỏi
Tỉnh trưởng là ông nào nó cũng không biết. Thế rồi học sinh bị cuốn đi biểu
tình đả đảo ông Nguyễn Tri Sơn, nghe đâu ông ta từng làm tỉnh trưởng Bến Tre và
là đảng viên Cần Lao. Đi thì đi, biểu tình người ta hô sao mình hô vậy. Đoàn
biểu tình kéo theo đường Quang Trung trực chỉ Tòa Hành chính Tỉnh và tràn vào
hô khẩu hiệu đòi bắt ông Tỉnh trưởng. Sau đó ông Đại tá Lê Văn Hiền thay mặt Hội đồng
Quân nhân Cách mạng ra tuyên bố ông Nguyễn Tri Sơn không làm tỉnh trưởng Quảng
Trị nữa và khuyên học sinh về lo học. Cuộc biểu tình này chắc là do sinh viên
Huế ra tổ chức vì thấy một sinh viên lên tuyên bố biểu tình thắng lợi, kêu gọi
học sinh giải tán. Lần đầu thằng oắt con này làm chính trị, tham gia biểu tình
chính trị mà chẳng rõ đầu cua tai nheo gì cả.
Có lần trong một buổi mít-ting, thầy Mai dạy đệ nhị cấp, thường đi chiếc xe hơi rất sang trọng) lên phát biểu kêu gọi tinh thần khoan dung giữa mọi người Việt vì "bàn tay có ngón dài ngón ngắn, ngắn dài đều hợp vào bàn tay". Hôm sau có truyền đơn tố cáo rồi đả đảo vì cho là cần lao nhân vị, từ đó không thấy Thầy nữa.
Có lần trong một buổi mít-ting, thầy Mai dạy đệ nhị cấp, thường đi chiếc xe hơi rất sang trọng) lên phát biểu kêu gọi tinh thần khoan dung giữa mọi người Việt vì "bàn tay có ngón dài ngón ngắn, ngắn dài đều hợp vào bàn tay". Hôm sau có truyền đơn tố cáo rồi đả đảo vì cho là cần lao nhân vị, từ đó không thấy Thầy nữa.
Những năm sau 1963, không khí đấu tranh chính trị ở
miền Nam
dồn vào trường học, ngoài đường thì bãi công bãi thị, trong trường thì bãi
khóa. Đầu tuần, chào cờ xong, một học sinh lớp trên ra tuyên bố bãi khóa, thế
là nghỉ, nghỉ không kì hạn. Văn phòng Trường có lúc bị chiếm làm văn phòng của sinh viên tranh đấu. Trước cổng
trường có lần dàn bày một cuộc tuyệt
thực chống Trần Văn Hương, rồi Phật giáo biểu tình đưa bàn thờ ra đường… Mọi
thứ rối loạn, trường không dạy dỗ được, học sinh nghỉ học đến ê chề.
Nhà xa, những giờ trống hoặc những trưa ở lại chờ học
buổi chiều là những khoảng thời gian tự do, vào các tiệm sách đọc báo cọp hoài
cũng bị xua đuổi, chẳng biết lang thang chỗ nào nên đi vào các tiệm vẽ truyền
thần xem, đi vào các quán billard xem người ta đánh, luẩn quẩn mua ổ mì xíu hai
đồng chan nước thế là xong. Thị xã thân thiết nhưng nghèo quá, sách báo lại
thiếu, mình cũng nghèo nên chẳng biết sinh hoạt tinh thần ra làm sao.
Năm 1964, xuất hiện quán cơm Xã Hội sát bờ sông Thạch
Hãn, bán giá rẻ 1 đồng (trong khi ổ mì xíu 3 đồng) cho những người nghèo, ngay
tức khắc học sinh Nguyễn Hoàng tràn vào chiếm lĩnh “trận địa ăn uống” này. Lúc
đầu chưa đông, cơm nhiều thức ăn khá, sau đó chất lượng có phần sút giảm nhưng
lượng người ăn tăng mạnh, phải chen chúc mới mua được phiếu. Những học sinh
cùng làng cùng nhóm thường phân công mua phiếu sớm, không thì hụt ăn.
Ngoài chuyện học thì các sinh hoạt xã hội khác khá
hiếm hoi, bạn bè chỉ biết nhau rằng mày làng này, tao làng kia thân tình nhưng
thiếu gần gũi. Cũng bởi chiến tranh rồi điều kiện sinh hoạt hạn chế một phần,
phần thiếu tổ chức, trong khi các lớp khác ra được báo tường hoặc có du
ngoạn…thì lớp tôi chẳng có hoạt động nào ra hồn ngoài việc có một lần vận động
cứu trợ bão lụt, trưởng lớp Trịnh Lăng (Trà Liên) lên phổ biến kêu gọi kẻ ít
người nhiều nhưng y ta lúng túng nói thành “kẻ
ít nhiều tiền”, cả lớp cười cái ầm rồi chẳng ai đóng góp, kì thực có đứa
nào có tiền đâu mà góp. Họa hoằn có một lần đến giờ thầy Lâm (toán lý) dạy,
thầy cho nghỉ qua sân vận động đá banh. Lần này mấy tay Chơn Giáo, Chơn
Chiên trong lớp thì lầm lì nhưng ra
đây mới tìm được mảnh đất sống, phát huy
được khả năng tung hoành, trở thành cầu thủ hàng đầu của lớp.
Nói chuyện tiền làm sao quên được những phen trốn nợ.
Từ năm 1963, Trường đã xây xong dãy phòng ở sát đường Quang Trung, gọi là dãy
nhà phụ huynh bởi do tiền của phụ huynh đóng góp xây dựng. Quy định trước đó là
mỗi học sinh phải đóng 50 đồng. Văn phòng trường gửi giấy liệt kê danh sách
những học sinh mà cha mẹ chưa đóng, giám thị gọi tên học sinh ra và mời lên văn
phòng làm việc. Ở quê tôi, công làm thuê một ngày 2 đồng, công thợ là 3 đồng,
nay phải nộp 50 đồng, lấy đâu? Nghe sợ lắm, nhìn thấy giám thị xuống và các lớp
bên xôn xao là xin thầy ra ngoài ngay, trốn. Cũng có thầy phát hiện và nhá
trước cho học sinh trốn. Hóa ra các thầy cũng thông cảm và “tiếp tay” cho học
sinh nhà nghèo. Thực ra, nhà trường cũng chỉ
làm căng trong vòng tuần lễ rồi bỏ luôn, từ đó về sau không bao giờ nghe
đến chuyện nạp quỹ phụ huynh gì cả. Chúng tôi học trường Nguyễn Hoàng 7 năm
không phải đóng một đồng quỹ nào. Hơn nữa có bạn tôi như Võ Mẹo thi vào đỗ thứ
9, năm nào cũng lên lớp, được nguyên 7 năm học bổng.
Chúng tôi học Toán
đầu tiên với thầy Thỉnh (người làng Đạo Đầu), thầy dạy hình học và bảo
có nhiều loại hình học cao cấp hơn nhưng giờ hãy học hình học phẳng cái đã,
cũng giống như nắm nguyên lí chiếc tàu bay già
rồi sau đó hãy tìm hiểu về phản lực. Dạy về đường thẳng song song, thầy
bảo trong thực tế không có hai đường thẳng song song, hai bức tường song song
thì ngôi nhà sẽ sập, hai sợi dây dọi gọi là song song kì thực nó gặp nhau ở tâm
quả đất…Những phản biện về Toán như vậy làm chúng tôi thích thú, hằn sâu như
một thứ triết lí. Thầy phụ trách lớp tôi lại kiêm nhiệm Phòng thí nghiệm của
trường, đặc biệt ở Nguyễn Hoàng, phòng được đặt tại vị trí trung tâm trang
trọng nhất của Trường. Có lần Thầy cho cả lớp đi làm vệ sinh Phòng thí nghiệm,
chúng tôi háo hức, cả một thế giới tranh ảnh, bản đồ, mô hình, thiết bị hiện ra
trước mắt. Đứa nào cũng tích cực lau dọn theo phân công, cuối buổi thấy thưởng
công bằng cách cho soi nhìn kính hiển vi. Thầy hướng
dẫn điều chỉnh to nhỏ khi quan sát một cọng tóc. Chúng tôi thấy sợi tóc đen hóa
màu tím, chung quanh là những nốt sần
nhỏ, thật thích thú khó tả.
Chúng tôi cũng học Toán với thầy Phan Khắc Đồ (sau này dạy ở
Phan Chu Trinh- Đà Nẵng), một người có phương pháp sư phạm cực kì chặt chẽ và
sáng sủa, thầy dạy ở các lớp trên, bảo chỉ dạy tạm ở lớp chúng tôi. Môn Toán
trừu tượng và logic đến nghiệt ngã nhưng dưới sự hướng dẫn của Thầy, mọi thứ
trở nên rõ ràng, đứa học toán kém nhất lớp cũng hiểu được. Có lần trường tổ chức văn nghệ tại rạp Đại Chúng, Thầy có lên biểu diễn violin.
Chúng tôi cũng được học Toán với thầy Nguyễn Văn Thị. Người Thầy
thấp mập, là sĩ quan pháo binh biệt phái. Thầy hiền nhưng nghịch và khi nổi
nóng thì cộc tính lắm. Thường thì bọn học sinh lớp trước đã nắm tính tình phong
cách khả năng của các ông thầy và rỉ tai lưu truyền cho lớp sau khai thác. Thầy
giải bài toán xong, hướng dẫn lại, nhiều khi nói nhanh nên gấp gáp lúng túng Thầy thường bảo này ra này, này ra này, thế…thế …thế…Ai không tin giở sách ra mà xem. Học
trò cười ồ, Thầy đỏ mặt nhưng cũng cười rồi mắng: Cười chi mà cười! Biết Thầy nghịch, mấy khi còn dư giờ, có đứa gọi
ý thầy cho biết chuyện kín. Thầy cười bảo : Lớp
tụi bây con trai tau mới nói chứ lớp có con gái
tau không nói đâu. Đàn ông một lỗ hai việc còn đàn bà hai lỗ hai việc…Cả
lớp cười rần rần. Và nhiều chuyện độc nữa kia. Thưa Thầy, Thầy dạy chúng em học
toán hàng năm, biết bao kiến thức nhưng rồi không khéo chúng em quên hết, còn
chuyện “trần tục” này thì không nhắc cũng nhớ, một mảng vui học đường, cứ nhớ đến Thầy là mỉm một nụ
cười. Thầy hiền như Bụt nhưng nóng lên thì học sinh sợ một phép. Có lần Thầy
lên văn phòng có việc, sổ điểm để nguyên trên bàn, Trần Phiếm lên ghi vào
cột kiểm tra một điểm số khiêm tốn: 13
(Thời bấy giờ thang điểm 20). Cả lớp đều thấy, đương nhiên không ai thóc mách
lại thế mà Thầy vừa vào, liếc qua sổ đã
phát hiện ngay. Thầy đập bàn gọi Trần Phiếm, mắng: Có khi mô mi cỡi lên đầu cha mi
mà nhổ râu cha mi không? Phiếm khóc xin lỗi. Thầy quát đi lấy sổ
phạt, Phiếm bị phạt 2 giờ cấm túc. Thời bấy giờ mà nghe hình phạt cấm túc dù
chưa biết xử phạt thế nào nhưng sợ lắm.
Cô Táo cũng dạy Toán lớp chúng tôi, tôi nhớ như in chữ
kí cô trong sổ đầu bài là cTáo, cô
dạy nhiệt tình và dễ hiểu. Cô vừa là Giáo sư Hướng dẫn lớp. Có lần, tiết của
cô Huệ (lí hóa), lớp không có khăn bảng,
Cô hỏi sao không chuẩn bị, trong lớp có tiếng nói không ai phân công. Cô bảo
sao không báo với giáo sư hướng dẫn để phân
công, giờ hướng dẫn để làm gì. Có người thưa rằng giờ hướng dẫn Cô cũng dạy
toán luôn. Cô Huệ bảo rằng thế thì tốt, người ta dạy toán cho còn việc khác lớp
phải lo đi chứ. Có tiếng dưới vọng lên: Dạy
thì ăn tiền. Cô Huệ giận, bước ra. Đến giờ sinh hoạt, cô Táo vào hỏi ai
phát biểu. Cả lớp im lặng. Thực ra tôi và nhiều bạn chỉ nghe tiếng hàng sau
vọng lên chứ cũng không biết ai phát biểu. Cô hỏi nhiều lần vẫn im lặng. Cuối
cùng cô cho ghi phiếu kín tên người nói. Té ra anh chàng Lê Cảnh Phong. Phong bị
phạt 2 giờ cấm túc. Trên đường về, anh ta
vẫn bướng bỉnh bảo: Cô mất 2 giờ
mới phạt được tau, Cô phạt tau 2 giờ thì tau cũng phạt Cô 2 giờ. Nói năng
thầy chạy thật! Sinh hoạt hướng dẫn (giờ của giáo sư cố vấn- ngày nay gọi là
giờ sinh hoạt lớp, tiết chủ nhiệm) bị xem nhẹ, chắc cũng thiếu chuẩn bị về nội
dung hoặc khung sinh hoạt nên Thầy Cô thường cho nghỉ hoặc dạy chuyên môn trám
vào. Trong trường học hiện nay, tiết sinh hoạt cũng tỏ ra thiếu hấp dẫn và hiệu quả, giáo viên và học sinh rất chán.
Năm đệ thất có thầy Sơn dạy vẽ, bởi nói giọng Nam bộ
nên lớp thường gọi Thầy là người Sài Gòn, học thì học vậy nhưng không nghe rõ
thầy nói gì. Có lần Thầy dặn vẽ trang trí ở nhà nhưng tôi không nghe rõ, đến
giờ, các bạn khác đưa bài lên chấm điểm, tôi hoảng lên vẽ đại một hình vuông
rồi kẽ vẽ vào, bị ăn zéro. Một môn mà
đứa kém nhất cũng được 13- 15 điểm, mình lại bị 0, làm sao bù điểm, đau đớn xấu
hổ thật! Môn hội họa thực sự làm chúng tôi thích thú ở năm đệ ngũ, Thầy giới
thiệu mình là một giáo sư hội họa chứ không phải họa sĩ, Thầy hướng dẫn các quy
luật xa gần, cách thức ước lượng, bố cục…Dưới những nét phác họa kỹ thuật, bức
tranh hoàn thiện dần trên bảng thực thích thú, cả lớp bị mê hoặc, tiếc rằng chỉ
học Thầy có mấy tháng.
Cô Tường Vi dạy địa, thầy Ân dạy lịch sử, thầy Tuần
dạy vạn vật. Thầy Ân có mái tóc bồng bềnh, giọng khàn khàn, tôi nhớ cò lần Thầy say sưa giới thiệu về phi đội Thần Phong ném bom và đâm máy bay vào hạm đội Mỹ ở Trân Châu Cảng trong thế chiến II. Thầy đọc những bức thư của các phi công gửi cho vợ trước khi lên đường cảm tử. Nghe cũng phải xuýt xoa cảm phục người Nhật. Thầy Bá là người dạy môn Anh văn đầu tiên, thầy người thanh nhỏ,
đọc tiếng Anh rất ròn. Sách học là quyển Let’s learn English. Môn học cần ghi
nhớ, nhiều bạn thiếu ôn luyện, nửa chừng thì nản rồi buông. Cô Tâm Thạnh (phu
nhân của thầy Gioang) mới ra trường được phân vào dạy lớp tôi. Cô trẻ trung,
mảnh mai, tóc cắt kiểu demi garçon như một nghệ sĩ, hiền từ, thường nhắc nhở
nhẹ nhàng chứ không la rầy. Có lần dạy bài Thông điệp của nữ hoàng Anh gửi thần
dân, cô ngại viết bảng, hỏi có ai viết bảng đẹp, các bạn giới thiệu tôi. Thực
ra trong lớp tôi nhiều người viết chữ đẹp, nhất là chữ Nguyễn Thái, đẹp như
khắc chạm. Chữ tôi khi viết đứng khi viết nghiêng, thay đổi mẫu kiểu tùy hứng,
có sắc sảo nhưng không thật bay bướm lắm. Tôi hồi hộp lên viết bảng, xong về
chỗ xem lên, đến bây giờ mới được xem đầy đủ sản phẩm của mình, quá đẹp, bạn bè
tôi có con mắt thật. Trong khi tôi viết bảng thì Cô chép toàn bài vào trong tập
cho tôi, thực vinh hạnh nào bằng, tôi thường khoe với bạn bè “thủ bút” của Cô, tiếc rằng không lưu giữ được. Vừa rồi xem
ảnh Lê Quý Phi (tứ 3) gửi cho, thấy Cô
hạnh phúc bên Thầy, nét xưa Thầy Cô vẫn còn, dễ nhận ra, thật cảm động.
Năm đệ lục, thầy Liệu (hình như dạy môn Địa lí) dạy chúng tôi một đoạn hành khúc nói về người dân Do Thái trên đường về lại vùng đất Hứa: Ề sa lu lơ man à vô đa. À vô đa lơ man ê sa lù. Zùm gà li ga li ga li zùm gà li gạ li... Chẳng hiểu nội dung thế nào, chúng tôi cứ tưởng tượng ra đoàn ngươi Do Thái về phục quốc sau hàng nghìn năm lưu lạc, vừa phấn chấn vừa cảm phục một dân tộc kiên cường.
Năm đệ lục, thầy Liệu (hình như dạy môn Địa lí) dạy chúng tôi một đoạn hành khúc nói về người dân Do Thái trên đường về lại vùng đất Hứa: Ề sa lu lơ man à vô đa. À vô đa lơ man ê sa lù. Zùm gà li ga li ga li zùm gà li gạ li... Chẳng hiểu nội dung thế nào, chúng tôi cứ tưởng tượng ra đoàn ngươi Do Thái về phục quốc sau hàng nghìn năm lưu lạc, vừa phấn chấn vừa cảm phục một dân tộc kiên cường.
Lớp học môn
Việt văn với cô Hảo, Cô dạy chu tất, cung cấp cho cả một hệ thống kiến thức từ
chuyện Thơ Nhị thập tứ hiếu đến văn chương Tự lực văn đoàn. Thầy Quật (Thầy bảo
quật là quýt, tên Thầy lấy từ chuyện Lục
Tích trộm quýt, một tấm gương hiếu) dạy
vui, giờ Thầy thực cởi mở. Cao hứng, Thầy còn cho cả lớp tập làm thơ. Trong lớp có hai bài được
Thầy khen đó là bài của tôi và Lê Tây. Bài thơ của tôi làm lúc thiếu niên mà
không thua ghì ông cụ non chắc cũng vì
chịu ảnh hưởng của Chinh phụ ngâm gì gì đó.
Chàng vẫn mãi
là người lính chiến
Nơi xa xăm đợi tiến bước chân
Khi nào hết việc trung quân
Thì chàng trở lại sống cùng vợ con
Thầy khen vần điệu chuẩn, có điều trung quân là xưa
rồi, nay người ta phải nói trung với dân. Sắp tết, Thầy vào, cả lớp nhao
lên xin cho liên hoan, té ra Thầy cũng
chuẩn bị sẵn một bữa đãi đằng độc đáo là lôi ra cho cả lớp chục phong kẹo cao
su chia nhau vừa nhai vừa văn nghệ. Thầy
bảo muốn hát hò trò chơi kể chuyện tiếu lâm gì cũng được. Được thể tôi kể một
câu chuyện tiếu lâm hơi tục, mấy bạn cùng bàn bấm bấm sợ thầy rầy la nhưng
không, thầy bảo cứ kể tiếp tục rồi cười đỏ cả mặt mũi. Sau này lên đệ Tam, tôi
lại được học với Thầy. Thầy Anh cũng có dạy lớp chúng tôi một thời gian, Thầy
cẩn trọng, vốn chữ Hán phong phú, thường dẫn nghĩa giúp học trò hiểu kĩ.
Có thể nói thầy Mai là thầy Việt văn để lại ấn tượng
sâu đậm nhất đối với lớp. Ở Thầy là sự kết hợp vốn hiểu biết thâm sâu và phong
phú của một nhà nghiên cứu văn học và phong cách diễn đạt sắc sảo bay bướm đầy
sáng tạo của một nhà nghệ sĩ. Thầy đã thổi vào hồn chúng tôi lòng say mê văn
chương từ thơ Đường, từ điển tích, từ tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa đến thơ văn
Việt Nam.
Thầy chỉ ghi đề bài, thế là giảng, đọc thơ cổ điển cũng như thơ hiện đại truyền
cảm lạ lùng. Cả một hệ thống kiến thức được Thầy dẫn dắt, đối chiếu gieo trong
lòng người học biết bao ấn tượng. Những bài thơ chữ Hán khó thế mà nhờ thầy
truyền cảm, chúng tôi đều nhớ thuộc lòng. Mồi điếu thuốc Salem, rít một hơi, Thầy vừa đi lại vừa
giảng, lớp im phăng phắc, chúng tôi vừa ghi vừa thấm từng lời. Phân tích màu
xanh trong Chinh phụ ngâm:. Cùng trông
lại mà cùng chẳng thấy/ Thấy xanh xanh như mấy ngàn dâu/ Ngàn dâu xanh ngắt một
màu/ Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai Thầy lại đối chiếu qua màu xanh Cỏ non
xanh tận chân trời trong Truyện Kiều rồi màu xanh trong thơ hiện đại: Làng tôi là một màu xanh/ Màu xanh thân mến
trong lành anh ơi/ Nhưng từ khói lửa ngụt trời/ Màu xanh nay đã úa phai điêu
tàn/ Màu xanh của mạ non/ Ôi một màu xanh rờn/ Thắm như những tà áo/ Của cô
nàng gót son/ Màu xanh của vườn cây/ Mà buổi trưa nào đấy/ Ra vườn tôi cộ võng/
Nằm lặng ngắm trời mây…(Văn Hai). Thầy phân tích từng sắc thái, từng tâm trạng, chúng tôi vừa
ngạc nhiên vừa mê mẩn. Không thấy Thầy gọi lên đọc bài nhưng bài của Thầy đứa
nào cũng đọc đi đọc lại đến thuộc lòng, cứ trông đến giờ Thầy để mà xuýt xoa.
Các thầy trước đây rất oai. Nội cái tên gọi giáo sư
nghe cũng trân trọng rồi. Khoảng cách giữa thầy trò là khoảng cách kiến thức,
mỗi thầy một nét riêng nhưng thầy nào cũng giỏi, trò rất phục thầy, chắc cũng
nhờ sự tuyển chọn làm cho ngành sư phạm
bấy giờ thu hút được tinh hoa. Sinh hoạt của thầy cũng cách biệt. Thầy
đi cửa giữa, học sinh chỉ được đi cửa nhỏ một bên bên. Khu sinh hoạt của thầy
riêng biệt. Phụ huynh cũng không dám mời thầy ăn uống nói chi học sinh, không
có chuyện thầy đi chơi ăn uống buông tuồng với trò. Thầy lại sang, những năm 60
mà nhiều giáo sư đi xe con, xe vespa,
mặc veston cà vạt sang trọng trong khi học trò áo quần còn có chỗ vá, đi dép địu. Sau
này được như thầy là trong mơ rồi. Thường những ngày sắp nghỉ tết nguyên đán,
thấy thầy vào là lớp xin liên hoan, thầy phải xì ra một cọc. Được chơi khỏi học
lại còn được ăn bánh kẹo, sướng! Trò không tiền, thầy chiêu đãi trò chứ không
có chuyện trò chiêu đãi thầy như sau này. Trường có tổ chức xổ số tom-bô-la vào
dịp tết, ai mua? Thầy mua rồi phát tặng cho các lớp. Thầy hào phóng lắm!
Phải nhập học cả tháng tôi mới thấy thầy Hiệu trưởng,
dáng thầy cao thẳng, phương phi. Dưới hiệu trưởng có hai bộ phận giúp việc là
giám thị và giám học. Học sinh rất sợ thầy Xuân tổng giám thị, dáng người cao
to, râu ria, da ngăm, nhiều đứa vi phạm nội quy bị thầy đánh tới tấp. Sau ngày
đảo chính 1/11/63, nghe rằng bị học trò đả đảo, Thầy chuyển đi đâu không rõ. Và
rồi thầy Thanh lên làm tổng giám thị. Giám thị có nhiều như thầy Địch, thầy
Kinh…còn trẻ, chỉ nhắc nhở ít la mắng nên học sinh đều có cảm tình. Những năm
này nhà trường có thêm phòng y tá do cô
Hồ phụ trách, chúng tôi rất siêng lên xin thuốc, cứ khai nhức đầu sổ mũi linh
tinh gì đó là được cho cả nắm thuốc. Bộ phận giám học được thành lập khoảng
1964, do thầy Vĩnh Quyền dáng người thanh lịch phụ trách. Giữa phòng giám học
và dãy lầu treo một sợi thừng ngăn, có lần bạn tôi là Đỗ Điện nhảy qua bị
vướng, té gãy tay (nghe đâu bây giờ đang làm chủ nhà hàng ăn uống tại Ái Tử).
Thời bấy giờ trong thanh thiếu niên thường dùng quán ngữ "Xưa!" để chê bai một điều gì đó. Có lần, một học sinh cứ đi vô đi ra văn phòng, thầy Doan làm thư kí hỏi có việc gì, anh ta không nói rồi bảo "Xưa!". Thầy Doan nóng lên sạc cho một trận: "Vô cổ bất thành kim, không có xưa làm sao có nay, không có cha anh làm sao có anh, không có ông nội anh làm sao có cha anh?". Anh học sinh kia có nước chạy. Tôi chưa bao giờ thấy có người chưởi hùng hồn, chưởi sướng đến như vậy.
Thời bấy giờ trong thanh thiếu niên thường dùng quán ngữ "Xưa!" để chê bai một điều gì đó. Có lần, một học sinh cứ đi vô đi ra văn phòng, thầy Doan làm thư kí hỏi có việc gì, anh ta không nói rồi bảo "Xưa!". Thầy Doan nóng lên sạc cho một trận: "Vô cổ bất thành kim, không có xưa làm sao có nay, không có cha anh làm sao có anh, không có ông nội anh làm sao có cha anh?". Anh học sinh kia có nước chạy. Tôi chưa bao giờ thấy có người chưởi hùng hồn, chưởi sướng đến như vậy.
Trong học sinh bấy giờ có nhiều băng nhóm thường gây
sự đánh lộn, những đứa học trò nhà quê như chúng tôi sợ lắm. Văn Cư học trên
tôi một lớp, người lỏng khỏng yếu ốm nhưng nhờ mẹo vặt mà không ai dám dọa lại
còn sợ nó nữa chứ. Nó quen với thằng Thu người lầm lì nóng lên là bất kể, nổi
tiếng đấm đá. Cư bàn với Thu, cho Thu giả làm đàn em, trước mặt học sinh các
lớp, Cư quát tháo đánh đá vào người, Thu làm bộ dạ huện sợ sệt, bọn học trò
tưởng tay này ghê gớm lắm, sợ Cư một phép.
Bấy giờ, đứa nào thi đệ nhất lục cá nguyệt hoặc đệ nhị
lục cá nguyệt (bây giờ gọi là kiểm tra học kì 1, học kì 2) mà điểm cao nhất lớp
thì được vinh hạnh làm sơ mi (chermi), xếp bài mình ngoài cùng bọc (làm áo) các
bài còn lại. Người làm sơ- mi phải xếp thứ tự theo điểm số, lập danh sách,
trình giáo sư bộ môn kí rồi nộp lại cho phòng giám học. Trong 4 năm đệ nhất
cấp, đứa học trò trung bình như tôi may mắn được ngóc lên 2 lần ở môn Nhạc và
môn Việt văn, thế là vinh dự lắm rồi. Những bạn giỏi có khi làm sơ-mi mệt nghỉ.
Học hành tuyển chọn
khó nên lớp dưới lớp trên cách biệt, học sinh lớp trên cũng phải ra vẻ
kẻ cả với lớp dưới và lớp dưới không nói lễ phép nhưng cũng phải kiêng vì lớp
trên.
IV.
TRUNG HỌC ĐỆ NHỊ CẤP
Hè năm 1967 hoàn thành chương trình đệ nhất cấp, kì
thi trung học (Diplome) được bỏ một năm
rồi, học sinh nào đủ điểm thì được cấp chứng chỉ Trung học. Lên đệ nhị cấp,
vấn đề đầu tiên là chọn Ban. Bấy giờ Trường có 3 ban: Ban A (hai môn chính là
Vạn vật và Lí hóa (đều hệ số 3), ban B: (môn Toán hệ số 4, Lí hóa hệ số 3), ban
C (môn Việt văn và Sinh ngữ (Ngoại ngữ Anh hoặc Pháp) hệ số 3). Toán và Anh văn
mình không giỏi, chỉ còn nước chọn ban A, nhiều đứa mỉa là ban “học thuộc lòng
bất tài vô tướng”, kệ nó, biết mèo nào cắn mỉu nào. Bạn bè thuở đệ nhất cấp một phần nghỉ học,
phần chuyển trường, còn lại phân tán, tôi vào đệ Tam A1. Giờ trên túi áo được
thêu tên và lớp màu xanh.
Nhờ trong hè có dịp tiếp cận sớm với chương trình nhất là xem trước môn Toán nên
lên tôi học khá thong thả. Môn Pháp văn là sinh ngữ phụ cũng tạo được hứng thú
vì là bô môn mới toanh với mình, do thầy Gioang giảng dạy. Thầy đọc tiếng Pháp
hay và khá nghiêm khắc nên học trò rất chịu học.
Suốt đệ nhất
cấp, lớp tôi toàn đực rựa, nay lên đệ Tam mới có một số bóng hồng: Lịch, Thêm, Diệu Á, người lớn nhất là chị
Trà. Một số bạn quen các lớp khác, thêm số bạn từ trung học tư Bồ Đề, hoặc
trung học các huyện như Gio Linh, Hải
Lăng vào như Ngọc Chắt, Ngọc Vọng, Chớ, Giỏ, Cường, Dũng, Tín, Đằng…Từ Tứ 1 lên
có Hiệu, Tứ 3 có Quang Vọng …
Thầy Quật lại dạy Việt văn, tính Thầy vui, dư giờ thì
cho học trò kể chuyện, không khí lớp vui rộn lắm. Thầy Lộc dạy văn chuẩn mực,
kiến thức chắc đủ nhưng ít bay bướm, chỉ để lại một ít ấn tượng khi thầy đi sâu
phân tích ba bài Thu của Nguyễn Khuyến mà Thầy thủ đắc.
Lớp chúng tôi cũng được học với Thầy Đằng. Tôi nhớ,
dạy thơ văn nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thầy bảo cái nhàn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng như nhà giàu, ăn thịt cá bưa ớn thì thích món dưa giá. Đúng là một
phản biện đáng suy nghĩ. Có lần thầy ra đề văn nghị luận xã hội: Con dại cái mang. Tôi giải thích, bình
luận đồng thời vận dụng thực tế cũng như các quan niệm tôn giáo để nêu một số
phản biện. Bài làm của tôi được thầy cho điểm cao ngất ngưởng với lời phê khen
ngợi những lập luận phản biện. Bài được bạn bè chuyền tay nhau đọc. Thế là tôi
có tiếng “cây văn” của lớp, đó cũng
có thể là điểm nhấn sau này tôi chọn vào Đại học sư phạm Việt Hán và sau này đi
vào viết lách thường nghiêng về phản biện thậm chí khi dạy Cao đẳng, nhà trường
cũng giao tôi đảm trách phần hùng biện trong Nghiệp vụ sư phạm.
Môn vạn vật học với cô Toàn, dáng người cao ốm, ai
cũng phục trí nhớ của cô. Chúng tôi học đi học lại không nhớ nhưng cô bảo cô
học dễ lắm, chắc nhờ Cô có phương pháp.
Môn lí hóa đệ Nhị học với thầy Bính, Thầy mới ra
trường và đảm trách khoảng giữa học kì. Mới ra dạy nên còn lúng túng lắm nhưng
Thầy nhiệt tình và tận tụy nên học trò rất quý. Do là năm thi, nhiều bạn nài nỉ
mở nhóm dạy thêm, Thầy đồng ý đảm trách. Nhóm
mở trường Bồ Đề, Thầy kiêm luôn ôn luyện cả Lí - Hóa - Toán. Thuở ấy tưởng
Thầy còn độc thân, trong lớp thường cặp đôi chị Trà với Thầy, Thầy phớt lờ. Có
bữa đang học thêm, Thầy nói chưa dứt thì chị Trà có ý kiến, một đứa vọt miệng
chọc: Thầy nói chưa hết mà chị Trà đã
giành (Ý như phụ nữ át chồng), Thầy giận quát : Đừng nói tầm bậy! Im re
hết, từ đó không đứa nào dám cặp đôi nữa. Vừa rồi Quý Phi (tứ 3) gửi cho tấm
hình chụp ở Huế, thấy Thầy vẫn mạnh khỏe, mừng lắm!
Thầy Lộc dạy toán dễ hiểu. Thầy Mãn dạy môn sử cho lớp
từ đệ Nhị, Thầy người nhỏ, nói năng rất duyên dáng. Thầy vừa tốt nghiệp ĐHSP
Lịch sử. Tôi nhớ nhất câu nói đầu tiên đầy ấn tượng của Thầy: Sử là gì? Sử là thời sự của quá khứ.
Cách diễn đạt của thầy bóng bẩy, lời nói có sức lôi cuốn, tâm huyết với bộ môn. Thầy còn dạy tôi năm đệ Nhất nữa.
Cuối năm đệ Tam, lớp học quân sự lần đầu tiên được mở tại trường, nam sinh phải dự. Mỗi đứa được phát một bộ đồ ka-ki vàng, mũ ca-lô. Đa phần đều tháo ra may lại, chỉ vài đứ để nguyên vậy mà mặc, rộng thùng thình. Lớp do các sĩ quan bên Tiểu khu (đóng tại Thành Đinh Công Tráng nay là chứng tích Thành Cổ) phụ trách. Quân sự dăm bài, cũng đội ngũ một hai, lăn lê bò toài lấy lệ rồi sau đó tham gia duyệt binh trước Tòa Hành chính tỉnh. Đến năm đệ Nhị cũng có học quân sự mấy buổi đại khái về hàng lối đội ngũ do các Thầy là sĩ quan biệt phái như thầy Thăng, thầy Sấm... đảm trách.
Cuối năm đệ Tam, lớp học quân sự lần đầu tiên được mở tại trường, nam sinh phải dự. Mỗi đứa được phát một bộ đồ ka-ki vàng, mũ ca-lô. Đa phần đều tháo ra may lại, chỉ vài đứ để nguyên vậy mà mặc, rộng thùng thình. Lớp do các sĩ quan bên Tiểu khu (đóng tại Thành Đinh Công Tráng nay là chứng tích Thành Cổ) phụ trách. Quân sự dăm bài, cũng đội ngũ một hai, lăn lê bò toài lấy lệ rồi sau đó tham gia duyệt binh trước Tòa Hành chính tỉnh. Đến năm đệ Nhị cũng có học quân sự mấy buổi đại khái về hàng lối đội ngũ do các Thầy là sĩ quan biệt phái như thầy Thăng, thầy Sấm... đảm trách.
Trong số bạn bè, tôi thân với Nguyễn Đằng (ở thôn
Thạch Hãn) nhất, hắn vui tính, hiền hòa. Đằng có năng khiếu trình bày, thường
làm các thiếp xuân hình hoa và cô gái nhân dịp tết, Đằng ưu tiên tặng tôi một
tấm, thật tuyệt. Hè đệ Tam, Đằng đưa quyển lưu bút và một hai nài nỉ tôi viết
đầu tiên. Tự nhiên nghĩ mình đi lính làm bài thơ gửi lại cho Đằng, dài lắm, chỉ
nhớ một đoạn:
Phượng nở rồi
mình thấy lòng tê tái
Bước chân đi xa tuổi dại học trò
Xa Đằng rồi còn đâu chuyện nhỏ to
Xa tất cả những giờ không còn gặp
Xa bạn bè mình thấy lòng quặn thắt
Nhưng Đằng ơi mình biết nói làm sao
Đứng nhìn nhau hai dòng lệ tuôn trào
Trai chinh chiến với mùa li loạn…
Bài thơ lan đi khá nhanh, tôi nhận được nhiều lời khen
và nhiều bạn có cảm tình. Nhất là thằng Giáo lớp kế bên (nhà ở xóm Ga), nó
thuộc hơn cả tôi thuộc bài thơ mình nữa, nó cứ xuýt xoa câu Trai chinh chiến với mùa li loạn. Tôi
xem Đằng và bạn bè là kẻ ở, đặt mình vào thân phận người đi nào ngờ tôi chẳng
đi lính tráng gì cả, học một mạch đến sau 1975 ra trường còn bạn bè đa phần đều
đi lính, riêng Đằng không học lên đệ Nhị nữa mà đi lính sớm, đi chuyên viên
không quân. Hóa ra thơ mình mà vận người.
Bọn học trò trong lớp tôi nghịch giỡn ghê lắm. Tôi nhớ
thằng Tín cận, có lần thầy Đằng sai đọc lại bài ca dao “Tiếc sự biết nhau quá chậm”, hắn dặng hắng rồi ngâm như người ta
tấu sớ: Trèo lên cây bưởi hái hoa
“Rớt”(Bước) xuống vườn cà hái nụ tầm xuân… Bạn bè cười rung lên cả nhưng y
vẫn thản nhiên ngâm đọc. Nghịch thầy chạy luôn!
Không khí chiến tranh lan vào học đường, ngồi học mà
nghe tiếng súng tiếng bom từ xa, bên trường máy bay trực thăng lên xuống liên
tục, ngoài đường lính tráng, xe pháo súng đạn. Tất cả chi phối tâm trí thầy
trò. Trường chỉ tổ chức dạy học các môn chứ không có hoạt động vui chơi sinh
hoạt gì khác. Học trò thì bị phân tâm. Một số quyết tâm lo học, một số mang tâm
lí rã rời. Thi bán phần (Tú tài 1) đến nơi, lao vào mà ôn. Chuyến này hỏng tú
tài là anh đi trung sĩ… Đậu tú tài là cầm chắc cái chuẩn úy trong tay.
Trước khi đi thi Tú tài, nhà trường tổ chức cho học
sinh thi thể dục nào chạy, ném tạ, leo dây, nhảy cao… để lấy điểm cọng thêm,
cao nhất là 2 điểm (một loại điểm rèn luyện thân thể, thực ra chẳng rèn luyện
gì, cứ đến lúc đó thì thi), hình như tôi được 1 điểm.
Chúng tôi phải vượt đoạn đường hơn 60km vào Huế thi Tú
tài 1. Tôi thi tại trường Quốc học. Tôi nhớ đề văn năm ấy ra bình giải hai câu
thơ của Nguyễn Khuyến: Ơn vua chưa chút
đền công, Cúi trông thẹn đất ngửng trông thẹn trời. Đề thuộc loại khó, phải
nắm chắc hoàn cảnh lịch sử và tiểu sử tác giả, nắm được tâm trạng của tác giả
mới bình giải được. Môn Việt văn tôi không sợ, vạn vật làm đúng, giải toán ra,
các môn khác làm được được. Mới thấy, chưa thi thì lo lắng đủ thứ, thi xong một
phát làm được hay không cũng cảm thấy mình nhẹ tênh. Đứa nào cũng có cảm giác
đó.
Đang thơ thẩn chơi trước nhà thì thằng Nhẫn rủ đi Huế
dò kết quả. Thì đi, xin mạ ít tiền rồi lên đường. Xe chạy dọc đường gặp con rắn
bò ngang, nó lách tránh bảo gặp rắn là may lắm. Vào đến trường Quốc học cũng là
lúc Hội đồng treo dán kết quả, Tên tôi, số kí danh, đúng rồi, tôi đậu, hạng
thứ. Coi đi coi lại cho chắc ăn, tôi đậu rồi! Còn nó, thằng Nhẫn, dò nát cả vẫn
không thấy, rà qua danh sách các phòng vần khác xem thử có lộn không, cũng
không thấy. Tôi giữ xe nó vào dò, mặt nó trắng bệch chạy ra, tôi bảo nó giữ xe,
tôi vào dò, lại không có bước ra. Thế này thì nó hỏng thiệt rồi! Mặt thất sắc,
nó mất tinh thần hẳn. Cay đắng. Thôi về! Biết nó mất tinh thần tôi bảo để tôi
chạy xe cho nhưng nó vùng vằng. Thôi ghé vào ăn uống gì rồi về, nó ừ. Ăn uống
xong tôi trả tiền nhưng nó giành trả, quyết giành trả, tôi đành chịu. Trên
đường từ Huế ra Quảng Trị giữa muôn ngàn xe cộ nào xe Mỹ, nào xe nhà binh ùn ùn
vụt vụt mà nó lầm lì lách lách lạng lạng chạy như thằng say, tôi ngồi sau lè
lưỡi nhắm mắt, phát lạnh cả người. Quãng đường hơn 60km mà tôi nín khe, không
sao an ủi nó được một lời vì nói ra càng
dở, hơn nữa sợ nó giận mắng cho thì mệt. Tới Quảng Trị, nó đưa tôi tận nhà, tôi
chưa kịp nói gì thì nó bảo: Thôi chúc
mừng mi còn đời tau không biết đi về đâu đây! Rồi cúi mặt quày xe đi ngay.
Những năm 1980, tôi làm giáo viên tình cờ gặp nó chạy mánh ở Sài Gòn, chẳng ma
nào ra hồn, tôi còn đói hơn nó.
Tôi vào, biết tin tôi thi đỗ, cả nhà mừng rỡ, mọi
người đều khen ngợi thán phục. Cả xóm Ga mười mấy đứa thi, chỉ có hai đứa là
tôi và Tâm (hiện ở Đồng Nai) đậu. Năm 1968 thi nới, năm nay thắt lại, tỉ lệ đỗ
chung chỉ 10,2%. Qua được một mô ách
trong chặng đời học tập, sướng không gì bằng.
Lớp tôi khoảng gần bốn chục người nhưng số đậu chỉ sáu người, đúng là
trên đầu ngón tay. Không qua được ách, nữ đi lấy chồng còn nam không còn tuổi
để học lại thì đã có quân trường hạ sĩ quan Đồng Đế vẫy gọi!
Đậu và hỏng hơn kém nhau cái bằng là hơn kém nhau một
cái đầu. Nhiều mối tình lìa tan cũng vì nàng đậu chàng hỏng. Cặp Phan- Ánh cũng
cặp kè nhau từ nhà đến trường suốt hai năm học không lúc nào rời, con đường
Quang Trung con đường Hưng Đạo ngày ngày chàng nàng chung bước, học sinh cả
trường còn biết nữa là. Thế nhưng định
mệnh trớ trêu, nàng Ánh vượt qua kì thi còn chàng Phan rơi lại. Ngày biết kết
quả cũng là ngày tự động khai tử mối tình, không một lời trăn trối.
Khi học lớp dưới chúng tôi thường ngắm nghía ngưỡng mộ
những học sinh đệ Nhất vì họ đã có Tú tài 1, thấy các anh đi ngang, chúng tôi
còn khép nép tránh đường. Bây giờ mình cũng được lên đệ Nhất. Năm 1967, Ban A chỉ có 1 lớp đệ Nhất. Còn một cửa
ải Tú tài 2, nếu không vượt được thì không thể “rớ cột trụ đại học”, lại phải
lao đầu vào học.
Nhất A được vài chục bạn gom từ các lớp đệ nhị lên và
một số bạn hỏng Toàn phần học lại. Nữ có mấy bông là Hoàng, Quỳnh, Thìn (sau
này đều tốt nghiệp ĐHSP Vạn vật), hình như Lê Thị Ba cũng có học một thời gian
sau mới chuyển lớp? Năm đệ Nhất ai cũng chúi mũi học, không có thời giờ để sinh
hoạt, chuyện trò nên ít thân thiết.
Môn Việt văn
không còn được học ở đệ Nhất nữa mà thay bằng môn Triết. Môn mới có vẻ
trí tuệ thâm sâu, gồm ba bộ phận Luận lí học, Đạo đức học và Tâm lí học, đứa
nào cũng háo hức. Thầy Tâm dạy Triết. Ở Thầy là một con người trí tuệ ẩn giấu
sau một con người chơn chất mộc mạc, một trí thức dưới một vẻ dáng nông dân
hiền hòa. Thầy dạy hấp dẫn, học sinh mê phục. Lần đầu tiên chúng tôi được tiếp
xúc với những bậc thầy trí tuệ nào
Socrate, Platon, Aristote, Hegel, Kant,
Descartes…, biết đến duy tâm duy vật, biết đến tam đoạn luận, biết đến trực
giác, ý thức…Trong giờ triết học, tôi thường hỏi và được thầy khen. Có lần tôi
thắc mắc rằng Descartes đề cập đến bản thể và tùy thể (nhị nguyên) nhưng cũng chính ông lại duy tâm khi tuyên bố; “Tôi tư tưởng (hoài nghi) vậy tôi có”,
như vậy là mâu thuẫn. Thầy khen rối rít rằng: “Anh thắc mắc có lí, anh thắc mắc có lí!”. Được thầy Tâm khen đâu có dễ, tôi sung sướng hãnh diện đến bây
giờ.
Thầy Suyền dạy toán. Đúng là môn toán đệ Nhất mà đệ Nhất A thôi đã cực khó. Những bài Thầy
cho giỏi lắm học trò cũng chỉ giải được phân nửa, Thầy phải hướng dẫn mới giải
xong. Có nhiều bài quá khó, Thầy cũng phải toát mồ hôi vò đầu suy nghĩ cả giờ.
Môn học căng thẳng lắm, thỉnh thoảng Thầy cũng dành một ít thời gian kể cho cả
lớp nghe chuyện Thầy đi chơi Sài Gòn, vui lắm. Thầy Gioang lại dạy Pháp văn.
Thầy Châm dạy Anh văn theo quyển English for today (Book 4). Môn chính Vạn vật
do cô Ngọc Lan dạy. Cô sôi nổi, nghiêm khắc, dạy rõ ràng chặt chẽ. Đúng là các
cô Vạn vật có trí nhớ tuyệt thật. Tôi có may mắn gặp Cô khoảng năm 1978 ở
Trường cấp 3 Duy Xuyên – Quảng Nam.
Thầy Tường dạy Lí Hóa chưa đầy nửa năm học thì chuyển đi, Thầy Bính thay thế,
thường thì các thầy chỉ tập trung dạy Lí còn Hóa giao cho học trò tự học.
Đối với một học sinh trung bình như tôi thì năm đệ
Nhất là năm học quá vất vả. Hết năm học lại vào Huế thi Tú tài 2 (ngày 8-7-1970). Bài làm có
môn được, môn tàm tạm, chưa biết đậu hỏng thế nào. Thôi thì rủ một cái nhẹ
gánh, được thì lên đại học không thì quân trường Quang Trung vẫy gọi.
Đang tha thẩn thì nghe xe hon da ầm ầm tiếng réo,
thằng Lê Đắc Đơn (làng Đa Nghi, hiện kinh doanh nhà hàng ở Bảo Lộc) kéo theo
một đám bạn bè ùa vào báo tin đậu, tôi ngần ngừ chưa tin vì sợ bọn chúng lừa.
Thằng Đơn khẳng quyết rằng không tin thì đưa quyển sách Vạn vật ra cho nó xé
cho mà tin. Thế là tin, mình đậu, gào lên một cái cho đã nào, sướng quá chừng
trời đất! Và rồi chạy về Trường rồi đi báo tin cho các bạn khác. Thi cử năm này
cũng dễ thở nên trong lớp tôi đậu gần hết, chỉ hỏng năm sáu người. Đậu hạng thứ
thế là được rồi, trong lớp có Quang Vọng đậu ưu, Thiện Thuyết đậu bình.
Làm bộ hình ma nhưng thực ra tôi tướng cóc, nhát lắm,
tôi thường gọi mấy cô học cùng lớp bằng chị, xin kính nhi viễn chi. Tuổi học trò
cũng loáng thoáng bóng áo dài trắng này áo dài trắng khác nhưng chỉ thoáng qua
mong manh. Cũng làm thơ tình kiểu như tưởng tượng ra rồi bi lụy của tuổi mới
lớn. Không có một mảnh tình vắt vai nhưng lại làm thơ thất tình mới là ngộ. Bài
thơ hình như chịu ảnh hưởng âm điệu của một người du học ở Pháp. Tôi chép trong
sổ, thằng cháu học lớp đệ thất rình đọc rồi xuýt xoa khen, hỏi thơ ai, tôi bảo
của tôi. Có người khen dù đó là đứa trẻ con
nên chi cũng nhớ nhập tâm.
Thôi mà em
Bởi hai đứa
mình
Không một lời
ước hẹn
Dĩ vãng úa
tàn
Biết làm sao
cho vẹn thương yêu
Anh biết xa
em
Đã mất rồi
tất cả
Hình bóng dịu
hiền
Một đời anh
ấp ủ
Em đi rồi
Làm sao
thương nhớ cho nguôi
Em đừng bảo
vì tình anh nông nổi
Anh dối lòng
anh
Em không tin
dù chỉ một lời
***
Có ngôn từ
nào không
Diễn tả được
cõi lòng
Khi hai đứa
mình
Ngày nhớ…
Đêm mong…
Tình yêu thuở học trò Nguyễn Hoàng của tôi là thế. Đúng
là “giết người trong mộng đã bội thề”. Não nề dữ hôn!
Ngẫm lại từ lớp Thất 2, sau bảy năm (1963-1970), từ
một lớp 50 học sinh chỉ có khoảng chục người: Nguyễn Thái, Trần Trinh, Lê Tây, Lê Núng,
Lê Quang Bình, Lê Xuân Quảng, Võ Mẹo, Văn Viết Đế, Nguyễn Ngọc Hùng, Nguyễn Văn
Hùng (không biết các bạn chuyển trường thế nào) hoàn thành trọn vẹn được bậc
trung học. Con đường đại học mở ra cũng là lúc giã từ biết bao bè bạn.
V.
VĨ THANH
Đất Quảng Trị gắn bó sâu nặng với thời lập nghiệp của
các chúa Nguyễn nhất là việc mở mang và xây dựng một cõi phương nam, Trường
vinh dự mang tên vị chúa khai nghiệp Nguyễn Hoàng. Ngôi trường Nguyễn Hoàng của
tôi, ngôi trường gắn bó sâu nặng cả quãng đời trung học, vật vã với gió nam gió
bấc, với gian nan đau thương của chiến tranh bom đạn. Ngôi trường với bao tâm
huyết của thầy và nỗ lực của bạn. Từ Trường bao thế hệ đã trưởng thành và tỏa
khắp mọi miền. Trò chạy loạn Trường cũng chạy loạn, có thời gian trường phải
dời vào Non Nước Đà Nẵng rồi về Hải
Lăng, chơ vơ trong cát gió. Hòa bình trở lại, bao thế hệ học sinh Quảng
Trị trở về nhưng Trường cũng bị xóa tên
từ đó, bao thế hệ học trò cũ như mất bến đậu, mất chốn trở về. Rằng xưa ở một
gia đình nọ, đời ông chịu thương chịu khó nhịn ăn nhịn mặc tích cóp tiền của
mua thật nhiều ruộng đất để lại cho con cháu. Để tưởng nhớ công lao vun đắp,
đời con ông có dựng cho ông một tấm bia nho nhỏ để ghi công trạng hòng cho con
cháu nối đời nhớ đến tổ tiên. Đạo lí tưởng đơn giản như thế nhưng nào ngờ đến
đời cháu, đi đâu chúng cũng khoe có đất nhiều ruộng tốt, gắn bó máu thịt với
ruộng đất, ra sức dọn đất dọn vườn để sinh sôi của cải, và gặp cái bia mộ giữa
phong sương lẽ ra thắp vào mấy nén nhang nào ngờ chúng nhẫn tâm cuốc bỏ vì chê
là hủ lậu, cho là tàn tích phong kiến bóc lột.
Nghĩ đau!
Nhớ về Nguyễn Hoàng, nhớ về một thời trai trẻ, ngôi
trường hằn sâu trong tâm khảm bao thế hệ. Được học ở Nguyễn Hoàng là một vinh
dự, từ Nguyễn Hoàng ra đi, có người thành đạt, có người không nhưng ai mà chẳng
tự hào mình từng một thời học sinh của ngôi trường yêu quý này.
LỚP
ĐỆ THẤT 2 – ĐỆ TỨ 2
NĂM HỌC 1963-64 ĐẾN 1966-67
1. Đặng Khắc A 2. Phan Văn A
3. Nguyễn Văn
Ánh 4. Bùi Hữu
Bàng
5. Lê Quang Bình 6. Võ Thái Bình
7. Nguyễn Chơn
Chiên 8. Phan Đình Dẫn
9. Trần Dưỡng 10. Lê Đảo
11. Văn Viết Đế 12. Đỗ Điện
13. Nguyễn Chơn
Giáo 14.
Phùng Giáo
15. Nguyễn Hiêu 16. Nguyễn Duy Hoa
17. Nguyễn Hồng 18. Huỳnh Minh Hùng
19. Nguyễn Ngọc Hùng 20.
Nguyễn Văn Hùng
21. Lê Hy 22. Lê Thọ Khánh
23. Huỳnh Văn
Khánh 24. Trịnh
Lăng
25. Thái Văn Lưu 26. Võ Mẹo
27. Lê Thanh Năm 28. Nguyễn Hữu Nguyên
29. Lê Văn Nông 30. Lê Núng
31. Lê Cảnh Phong 32. Trần Phiếm
33. Trần Đình Phùng 34. Lê Xuân Quãng
35. Thái Văn Sinh 36. Văn Son
37. Nguyễn Minh Sơn 38. Nguyễn Đình Kiến Tánh
39. Lê Tây 40. Nguyễn Thái
41. Hoàng Văn Thành 42. Nguyễn Tạo
43. Võ Văn Thảo 44. Nguyễn Trì
45. Trần Trinh 46. …Thanh Trúc
47. Đoàn Tùng 48. Nguyễn Tượng
49. Trần Yên 50. .....Phú (nói giọng Bắc)
27. Lê Thanh Năm 28. Nguyễn Hữu Nguyên
29. Lê Văn Nông 30. Lê Núng
31. Lê Cảnh Phong 32. Trần Phiếm
33. Trần Đình Phùng 34. Lê Xuân Quãng
35. Thái Văn Sinh 36. Văn Son
37. Nguyễn Minh Sơn 38. Nguyễn Đình Kiến Tánh
39. Lê Tây 40. Nguyễn Thái
41. Hoàng Văn Thành 42. Nguyễn Tạo
43. Võ Văn Thảo 44. Nguyễn Trì
45. Trần Trinh 46. …Thanh Trúc
47. Đoàn Tùng 48. Nguyễn Tượng
49. Trần Yên 50. .....Phú (nói giọng Bắc)
-----------------------------------------------------
Võ Mẹo (Võ Làng Trâm) ghi lại
theo trí nhớ, Lê Quý Phi (Tứ 3) bổ sung...
Bản chụp danh sách Thất 2 đến Tứ 2/NH do Lê Xuân Quãng cung cấp . Còn thiếu ... PHÚ, Đinh Quang Tạo chuyển qua Thất 3- Tứ 3.
Bản chụp danh sách Thất 2 đến Tứ 2/NH do Lê Xuân Quãng cung cấp . Còn thiếu ... PHÚ, Đinh Quang Tạo chuyển qua Thất 3- Tứ 3.
March 9, 2015 Từ Facebook
Trả lờiXóaQuang Toan Nguyen tao da doc roi, bai viet nhung ky niem tu nho den khi vao de that cho den de nhat truong NH...bai rat hay,nhieu ky niem .....tao gio benh kem tri nho...bai nay lam nho lai mot thoi hoc tro dang yeu...gio dau con..cam on Tiểu Hùng Tinh
March 31, 2015 Từ facebook Nguyen Suong Bai Viet cua anh hay lam, cam on lớp dan anh
UnknownSeptember 3, 2015 a
Chú viết hay lắm. Cháu rất thích những câu chuyện như vầy. Viết để nhớ. Sao chú ko viết về làng mình nhỉ? Hôm trước về thăm làng, gặp anh em Sang, Sáng nhắc tới chú nhiều lắm.
September 3, 2015 Từ facebook
Mu Nguyen Thi Bài viết quá hay Chú ạ,chân thật,gần gủi và rất thân thương .
Like · Reply · 3 hrs
Sĩ Tú ký sự đẹp !
September 9, 2015
Doi Nguyen Anh da doc HOI UC NGUYEN HOANG .Hay qua Chu Hung oi ! Thanks a lot of .
September 6
Bâng Khuâng July 27, 2016 at 6:39 PM
Bài viết giản dị nhưng cuốn hút vì chân thành!
August 29, 2016 Hoa Nguyen Thi Hay lắm ! Anh không học Vạn Vật nhưng trí nhớ cũng siêu đó chớ !
Hoa Nguyen Thi Hay lắm ! Bài viết rất sống động . Trí nhớ của anh siêu lắm, thua chi dân Vạn Vật ?
Tiểu Hùng Tinh Cảm ơn Hoa Nguyen Thi quá khen.
Hoa Nguyen Thi H cũng có viết về thời kỳ đi học Trung Học . Để rồi gửi qua email cho anh đọc chơi . H ko viết blog
August 29, 2016 Từ Facebook: Lê Đức Tải -Giá trị vô cùng!
Huan Hoang Ngoc Thầy ơi ! Thì ra Thầy cùng lớp với Thầy Hùng Anh văn Hồi trước Thầy Hùng vô Cà Mâu trước khi vượt biên em có gặp Thầy Hồi sau75 Thầy Hùng dạy em ở C3 Đôngha
Tiểu Hùng Tinh- Đúng, mình là bạn Nguyễn Ngọc Hùng (hiện ở Cali).
July 16, 2017 Hồ Trọng Trí -
Cám ơn Tiểu Hùng tinh cho đọc Hồi Ức Nguyễn Hoàng hay & chi tiết độc đáo