TIỂU HÙNG TINH
ảnh internet
Trùng điệp là biện pháp nghệ thuật nhấn mạnh, lặp lại các yếu tố vần, từ, câu nhằm giữ lại dư âm, hình ảnh tạo sự liên kết, gây cảm xúc thẩm mĩ, tăng sức biểu hiện cho tác phẩm.
Người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm mòn mỏi đợi chồng, đêm trăng nhìn cảnh hoa lồng bóng nguyệt mà cảm thân phận cô đơn của mình: Hoa dãi nguyệt nguyệt in một tấm- Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông- Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng- Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau (Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung- Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch- Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng- Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng- Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung)
Tác giả và dịch giả khéo léo xoay đảo, trùng lặp hai tiếng nguyệt hoa (12
tiếng trong 4 câu) mà gợi ra hình ảnh quấn quýt nam nữ vừa sống động vừa thanh nhã lại càng khơi gợi nỗi xót xa nội tâm nhân vật.
Trong phép trùng điệp, trước hết phải nói đến điệp vần được dùng trong các thể thơ lục bát, song thất lục bát, thơ Đường luật, các loại văn biền ngẫu như phú, văn tế, cáo… Ngay trong thơ hiện đại, có chủ trương cho rằng chỉ cần nhịp điệu, tiết tấu, phá bỏ vần nhưng đa phần sáng tác vẫn giữ vần để tạo sự liên kết, âm hưởng. Thơ văn cũ theo luật bằng trắc, những tiếng mang vần nằm ở những vị trí được quy định, vần có thể sát (chặt) có thể lỏng (thoáng), nếu không tuân thủ sẽ bị xem là thất luật, đọc lên khó xuôi tai.
Điệp từ ngữ (lặp từ, lặp ngữ- cụm từ, bộ phận câu) có tác dụng nhấn mạnh, lặp lại từ ngữ chủ chốt nhằm phát tỏa thần thái câu văn: Đánh cho nó chích luân bất phản- Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn- Đánh cho sử tri Nam quốc sơn hà chi hữu chủ (Lời hịch đánh quân Thanh của vua Quang Trung). Từ đánh lặp lại tạo nên sự thôi thúc, khí thế dồn dập, mạnh mẽ của cuộc kháng chiến chống giặc.
Câu đầu tiên trong Bài ca chúc tết thanh niên của Phan Bội Châu: Dậy! Dậy! dậy! Bên án một tiếng gà vừa gáy- Chim trên cây liền tỏ ý chào mừng… Từ Dậy lặp đi lặp lại mang ý nghĩa thúc giục, lay gọi, tỉnh thức tầng lớp trẻ tuổi cũng như cả xã hội đang chìm đắm trong vòng nô lệ.
Khóc Bằng phi của Tự Đức, bài khốc văn nổi
tiếng có câu: Ới thị Bằng phi đã chết rồi! Ới tình ới
nghĩa ới duyên ơi! Thán từ ới lặp liên tục như nỗi
đau thương tiếc nuối, thể hiện trạng thái chới với cũng như những tiếng nấc nghẹn ngào. Nhờ phép lặp từ mà Mạc Đĩnh Chi trong bài văn tế công chúa nhà Nguyên đã tạo nên một áng văn tuyệt bút: Thanh thiên nhất đóa vân- Hồng lô nhất điểm tuyết- Thượng uyển nhất chi hoa- Quảng Hàn nhất phiến nguyệt- Y! Vân tán tuyết tiêu hoa tàn nguyệt khuyết (Trời xanh một đóa mây, Lò hồng một điểm tuyết, Vườn Thượng uyển một bông hoa, Cung Quảng Hàn một mảnh trăng- Ôi! Mây tán tuyết tan hoa hàn nguyệt khuyết). Chữ nhất trùng lặp chỉ số lượng vừa hàm chỉ thứ bậc, hiếm quý vô cùng, cao sang tột bậc, lời tán thán cùng tột và sau chữ Y, biếu âm của sứ tiếng khóc đau xót, các từ mây, tuyết hoa nguyệt được lặp lại rồi tan biến. Bài văn tế cực ngắn nhưng âm vang cảm xúc vô tận vô cùng.
Lặp lại cũng có tác dụng xâu chuỗi, liệt kê, điển hình trong bài ca dao Mười thương: Một thương tóc bỏ đuôi gà- Hai thương ăn nói mặn mà có duyên- Ba thương… Bốn thương… Mười thương… Có thể nói đây là điệp khúc yêu thương, yêu thương tràn ngập.
Điệp từ
ngữ có tác dụng
láy lại những hình ảnh tạo
âm vang ngôn từ. Mùa
thu mùa thu- Phố cũ hè
xưa… Mùa thu nơi đâu- Người
em mắt nâu… Mùa thu âm thầm- Bên
vườn Lục Xâm… (Cung Trầm Tưởng-
Mùa thu Paris). Hình ảnh mùa thu lặp đi lặp
lại gợi tả sự vương vấn, nỗi niềm nhớ
nhung, quyến luyến. Ta cũng
nhận thấy biện pháp
này được sử dụng trong Đây
mùa thu tới của Xuân Diệu và Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.
Cũng trong Chinh phụ ngâm còn có phép lặp nối từ ngữ: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy- Thấy xanh xanh như mấy ngàn dâu- Ngàn dâu xanh ngắt một màu- Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Câu trước làm đà, câu sau chồng dựa một phần lên câu trước tạo thế điệp trùng, giúp hình ảnh, ý tưởng hiển hiện.
Điệp câu, điệp đoạn vừa có tác dụng tạo dư âm vừa liên kết chủ đề toàn bài.
Điệp câu có thể là có thể là điệp cú pháp (lặp kiểu câu, lặp kết cấu câu) hoặc điệp từ loại (từ loại tương ứng). Trong văn học cổ, câu đối các thể loại văn thơ có yêu cầu đối như văn biền ngẫu, thơ luật Đường thì biện pháp điệp cú pháp được vận dụng tối đa. Hãy xem câu đối khi Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên: Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vừng trăng), Mạc Đĩnh Chi đối lại: Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô (Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời). Hoặc vế đối trong bài thơ Đường luật: Nhớ nước đau lòng con quốc quốc- Thương nhà mỏi miệng cái gia gia (Qua đèo Ngang), điệp (tương ứng) từng vế, từng từ loại tạo nên sự hô ứng, sóng đôi.
Là bài văn biền ngẫu, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi sử dụng nhiều biện pháp điệp câu tạo sự chững chạc đường bệ, khí thế vững chải, dồn dập: Ngày mười tám trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế- Ngày hai mươi trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu. Ngày hai mươi lăm bá tước Lương Minh đại bại tử vong- Ngày hai mươi tám thượng thư Lí Khánh kế cùng tự vẫn… Có thể kết hợp cả điệp từ và điệp cú pháp: Người ta sẽ khinh y, vợ y sẽ khinh y, con y sẽ khinh y, chính y sẽ khinh y (Nam Cao).
Bài thơ của Vũ Hoàng Chương có tiêu đề Mười hai tháng sáu cũng là ngày chia biệt của một mối tình Hoàng và Tố. Tiêu đề và hai nhân vật của cuộc tình được lặp lại như réo lên nỗi li tan, tuyệt vọng: Trăng của nhà ai? trăng một phương! Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường. Ờ! đêm tháng sáu mười hai nhỉ! Tố của Hoàng ơi! hỡi nhớ thương… Cứ thế Tố của Hoàng như một điệp khúc thương đau réo gọi bi thiết: Tố của Hoàng ơi! Tố của anh! … Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi. … Tố của Hoàng nay Tố của ai…
Trong Ngập ngừng, Hồ Dzếnh cũng dùng phép lặp câu đầu tiên Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé tạo thành điệp khúc: Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! Để lòng buồn tôi dạo gót quanh sân... Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! Em yêu ơi tình có nghĩa gì đâu... Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! Tôi sẽ trách- cố nhiên- nhưng rất nhẹ... Mỗi câu lặp mở ra một tâm trạng, một cung bậc xao xuyến, một nỗi nhớ mong, trách móc…
Tô Đông Pha cũng dùng biện pháp lặp: Lô sơn yên tỏa Triết giang triều- Vị đáo sinh bình hận bất tiêu- Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự- Lô sơn yên tỏa Triết giang triều (Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang- Khi chưa đến đó hận vô vàn- Đến rồi về lại không gì khác- Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang). Bài thơ bốn câu, lặp hai câu nhờ điệp câu mà gợi mở nhiều ý tứ vô cùng sâu xa, lan tỏa âm vang như không hề dứt.
Trong Vườn xưa của Tế Hanh, đoạn mở đầu được lặp lại toàn bộ làm đoạn kết: Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh, Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc. Hai ta ở hai đầu công tác, Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa? Mối tình bị cách trở, bị trôi đi theo năm tháng vô tình trở thành câu hỏi, nỗi than thở ray rứt, nghẹn ngào xót xa.
Trùng điệp thực chất là lặp lại ở mức độ nhiều ít, không phải là sự lặp lại thô vụng rườm ra mà là biện pháp nghệ thuật tăng cấp độ biểu cảm, phát huy tối đa âm hưởng ngôn từ.
11-11-25

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét