MỤC LỤC BLOG

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2025

PHÉP TRÙNG ĐIỆP TRONG VĂN CHƯƠNG

TIỂU  HÙNG TINH

 ảnh internet

            Trùng điệp là  biện pháp nghệ thuật nhấn  mạnh, lặp  lại  các yếu tố   vần, từ,  câu nhằm  giữ  lại    âm, hình   ảnh tạo  sự  liên kết, gây cảm   xúc thẩm mĩ, tăng  sức  biểu  hiện  cho tác phẩm.

            Người  chinh  phụ   trong Chinh phụ  ngâm mòn mỏi  đợi chồng, đêm trăng nhìn  cảnh hoa lồng bóng nguyệt  mà cảm   thân phận cô  đơn  của mình: Hoa  dãi nguyệt  nguyệt in một tấm- Nguyệt  lồng hoa hoa thắm  từng  bông- Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng  trùng- Trước hoa  dưới nguyệt  trong  lòng   xiết  đau (Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung- Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch- Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng- Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng- Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung) Tác giả và  dịch giả khéo léo  xoay  đảo, trùng  lặp  hai tiếng nguyệt   hoa (12  tiếng trong  4 câu)  mà  gợi  ra hình   ảnh quấn  quýt  nam nữ vừa sống động vừa thanh  nhã lại càng khơi  gợi nỗi xót  xa  nội tâm nhân vật.

             Trong  phép trùng  điệp,  trước hết  phải  nói đến điệp  vần  được  dùng  trong  các thể thơ  lục bát, song thất  lục bát,  thơ Đường luật, các  loại  văn biền ngẫu  như phú, văn  tế, cáo… Ngay  trong thơ hiện  đại, có chủ   trương cho  rằng chỉ   cần nhịp  điệu, tiết tấu, phá  bỏ  vần nhưng đa phần sáng tác  vẫn  giữ   vần  để tạo sự  liên kết, âm hưởng. Thơ văn     theo luật  bằng trắc,  những tiếng  mang vần  nằm ở  những vị  trí  được  quy  định, vần có thể sát (chặt)  có thể  lỏng (thoáng), nếu  không tuân thủ   sẽ   bị   xem là thất  luật, đọc  lên khó xuôi tai.

            Điệp  từ ngữ (lặp  từ, lặp ngữ- cụm từ, bộ phận câu) có tác  dụng  nhấn mạnh, lặp lại  từ ngữ chủ  chốt   nhằm  phát  tỏa thần thái  câu văn: Đánh cho  nó chích luân bất phản- Đánh  cho nó phiến  giáp  bất  hoàn- Đánh  cho sử  tri Nam  quốc sơn hà chi hữu chủ (Lời  hịch  đánh  quân Thanh  của vua Quang  Trung). Từ  đánh  lặp  lại tạo  nên sự thôi thúc, khí thế dồn dập, mạnh  mẽ của cuộc  kháng chiến  chống  giặc.

             Câu  đầu tiên trong Bài  ca  chúc tết thanh niên  của Phan Bội Châu: Dậy! Dậy! dậy! Bên  án  một tiếng gà  vừa gáy- Chim trên cây  liền tỏ ý chào  mừng… Từ  Dậy  lặp  đi lặp  lại  mang ý nghĩa thúc giục, lay  gọi, tỉnh thức  tầng  lớp  trẻ tuổi  cũng như  cả    hội  đang  chìm đắm  trong vòng nô lệ.

            Khóc  Bằng phi của Tự Đức, bài  khốc văn nổi  tiếng có  câu: Ới thị Bằng phi  đã chết rồi! Ới  tình  ới nghĩa ới  duyên ơi! Thán từ ới  lặp liên tục như  nỗi  đau thương  tiếc nuối, thể   hiện trạng thái chới  với cũng như những  tiếng nấc nghẹn ngào. Nhờ phép lặp từ  mà Mạc Đĩnh  Chi trong  bài  văn tế công chúa  nhà Nguyên đã tạo nên  một  áng  văn tuyệt bút: Thanh  thiên  nhất  đóa vân- Hồng lô  nhất  điểm tuyết- Thượng uyển nhất  chi hoa- Quảng Hàn  nhất  phiến nguyệt- Y!  Vân tán  tuyết  tiêu hoa tàn nguyệt  khuyết (Trời  xanh  một  đóa mây, Lò  hồng  một  điểm tuyết, Vườn Thượng uyển  một  bông hoa, Cung Quảng Hàn  một  mảnh trăng- Ôi! Mây tán  tuyết tan hoa hàn  nguyệt  khuyết). Chữ  nhất trùng lặp chỉ   số  lượng   vừa  hàm chỉ  thứ bậc, hiếm  quý vô  cùng,  cao  sang  tột  bậc, lời  tán thán cùng  tột  và  sau chữ  Y, biếu  âm của sứ tiếng khóc đau   xót, các từ  mây, tuyết hoa nguyệt  được  lặp  lại rồi tan biến. Bài  văn tế cực ngắn  nhưng   âm vang cảm  xúc vô tận vô  cùng.

            Lặp lại cũng có tác dụng  xâu chuỗi, liệt  kê, điển hình  trong bài ca  dao Mười  thương: Một thương tóc bỏ  đuôi gà- Hai thương  ăn nói mặn  mà có duyên- Ba thương… Bốn thương… Mười  thương… Có thể  nói   đây là  điệp  khúc yêu thương, yêu thương  tràn ngập.

            Điệp từ ngữ có tác dụng láy  lại những hình   ảnh tạo  âm vang  ngôn từ. Mùa  thu mùa thu- Phố      xưa… Mùa thu nơi đâu- Người  em  mắt nâu… Mùa thu  âm thầm- Bên  vườn  Lục Xâm… (Cung Trầm Tưởng- Mùa thu Paris). Hình   ảnh mùa thu lặp  đi lặp  lại  gợi tả sự vương vấn, nỗi  niềm nhớ  nhung, quyến  luyến. Ta  cũng    nhận thấy  biện  pháp  này  được  sử  dụng  trong  Đây  mùa thu  tới của Xuân Diệu    Tiếng thu của Lưu  Trọng Lư.            

           Cũng  trong Chinh phụ ngâm còn có phép  lặp nối từ ngữ: Cùng  trông  lại  mà  cùng chẳng thấy- Thấy  xanh   xanh như mấy  ngàn  dâu- Ngàn  dâu xanh ngắt một  màu- Lòng chàng ý thiếp   ai  sầu  hơn  ai. Câu trước  làm  đà, câu  sau chồng  dựa  một phần lên câu  trước tạo thế  điệp  trùng, giúp hình   ảnh, ý  tưởng  hiển hiện.

            Điệp câu, điệp đoạn vừa  có tác dụng tạo      âm  vừa   liên  kết chủ  đề  toàn bài.

Điệp  câu  có thể    có thể là điệp  cú pháp (lặp kiểu câu, lặp kết cấu câu) hoặc điệp từ loại (từ  loại  tương ứng). Trong  văn học cổ, câu  đối  các thể  loại văn thơ  có yêu cầu  đối như  văn  biền ngẫu, thơ  luật  Đường  thì biện  pháp  điệp  cú pháp   được vận  dụng tối đa.  Hãy  xem câu đối khi Mạc Đĩnh Chi  đi sứ nhà Nguyên: Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vừng trăng), Mạc Đĩnh Chi  đối lại: Nguyệt  cung  tinh  đạn, hoàng  hôn xạ  lạc kim ô (Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời). Hoặc vế  đối  trong bài thơ  Đường luật: Nhớ  nước đau lòng con quốc  quốc- Thương nhà mỏi miệng  cái  gia gia (Qua  đèo Ngang), điệp (tương ứng) từng vế, từng từ loại tạo nên sự  hô ứng, sóng  đôi.

   bài  văn  biền ngẫu, trong Bình  Ngô đại  cáo, Nguyễn Trãi sử   dụng  nhiều   biện pháp  điệp  câu tạo sự  chững  chạc đường bệ, khí thế  vững chải, dồn  dập: Ngày  mười tám trận Chi Lăng  Liễu Thăng thất thế- Ngày hai  mươi trận Mã Yên Liễu Thăng cụt  đầu. Ngày  hai mươi lăm bá tước Lương Minh  đại  bại tử  vong- Ngày  hai mươi tám thượng  thư Lí Khánh  kế  cùng tự  vẫn… Có thể  kết   hợp cả  điệp  từ    điệp cú pháp: Người ta  sẽ  khinh y, vợ y  sẽ  khinh y, con y  sẽ  khinh y, chính y  sẽ    khinh  y (Nam Cao).

Bài  thơ của  Vũ Hoàng Chương  có tiêu đề Mười  hai tháng   sáu  cũng là ngày chia biệt của một  mối tình Hoàng và Tố. Tiêu  đề    hai nhân vật của  cuộc  tình   được  lặp  lại như réo  lên  nỗi  li tan, tuyệt  vọng: Trăng của nhà ai? trăng một phương! Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường. Ờ! đêm tháng sáu mười hai nhỉ! Tố của Hoàng ơi! hỡi nhớ thương… Cứ thế  Tố  của  Hoàng   như một  điệp  khúc  thương đau réo  gọi bi thiết: Tố của Hoàng ơi! Tố của anh! … Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi. … Tố của Hoàng nay Tố của ai…  

Trong  Ngập  ngừng, Hồ Dzếnh   cũng dùng phép  lặp câu đầu  tiên  Em  cứ hẹn nhưng  em  đừng  đến nhé tạo thành  điệp khúc: Em  cứ hẹn  nhưng   em đừng  đến nhé! Để  lòng buồn  tôi  dạo gót quanh   sân... Em  cứ hẹn nhưng  em đừng  đến nhé! Em yêu ơi tình  có nghĩa  gì đâu... Em  cứ hẹn nhưng   em  đừng  đến nhé! Tôi  sẽ trách- cố nhiên- nhưng  rất  nhẹ... Mỗi  câu  lặp mở  ra  một tâm  trạng, một  cung bậc xao  xuyến, một  nỗi nhớ mong, trách  móc…

Tô Đông  Pha  cũng   dùng  biện pháp lặp:  sơn yên tỏa  Triết giang  triều- Vị   đáo  sinh  bình hận bất tiêu- Đáo  đắc hoàn lai     biệt  sự- Lô  sơn yên tỏa Triết  giang  triều (Mù  tỏa Lô sơn sóng Triết giang- Khi chưa  đến đó hận vô vàn- Đến  rồi   về lại  không gì khác- Mù tỏa Lô  sơn  sóng  Triết giang). Bài  thơ bốn câu, lặp hai câu nhờ  điệp câu mà gợi mở  nhiều ý tứ  vô cùng  sâu  xa, lan  tỏa âm vang như không   hề  dứt.

Trong  Vườn  xưa  của Tế Hanh,  đoạn mở  đầu được lặp  lại toàn bộ làm  đoạn kết: Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh, Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc. Hai ta ở hai đầu công tác, Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa? Mối tình bị cách trở,  bị  trôi  đi theo năm tháng vô  tình  trở thành  câu  hỏi, nỗi  than  thở ray  rứt, nghẹn ngào xót  xa.

Trùng   điệp  thực chất  là lặp lại ở  mức độ  nhiều ít, không phải là  sự  lặp  lại thô  vụng  rườm ra       biện pháp   nghệ thuật tăng cấp  độ biểu cảm, phát huy   tối đa âm hưởng  ngôn từ.

11-11-25

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét