TIỂU HÙNG TINH
ảnh internet
Khoa trương (khoa đại, phóng đại, nói quá, cường điệu) là thủ pháp nghệ thuật miêu tả sự vật, hiện tượng bằng cách làm tăng đặc điểm của đối tượng. Khoa trương là nói phóng to lên, cần phân biệt với nói giảm (nói cho ít, cho nhỏ lại). Nói ăn bữa cả núi cơm (ăn quá nhiều- phóng đại) khác với ăn bữa vài hột cơm (ăn quá ít- nói giảm).
Khoa trương có tác dụng:
- Tăng tính biểu cảm, khiến việc miêu tả trở nên sinh động, ấn tượng và có sức gợi cảm mạnh mẽ.
Gươm mài đá đá núi
cũng mòn- Voi uống nước nước sông
phải cạn, những câu trong áng thiên cổ hùng văn
Bình
Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi thể hiện khí thế oai dũng ngút ngàn của nghĩa quân Lam
Sơn. Hình ảnh
được phóng đại, nói
quá đi nhằm lột
tả sức mạnh vô song, sự uy
dũng tột độ.
Ối chà ! Nguy hiểm và cao thay! Đường Thục
khó, khó hơn lên trời xanh (Y hu hi! Nguy hồ cao tai! Thục đạo chi nan, nan ư
thướng thanh thiên! Lí Bạch tán
thán đường Thục khó rồi ví von, khó tới mức không thể hình dung, đẩy sự tưởng tượng đến tột
cùng không tưởng- đường lên trời. Quang Dũng phác họa tuy chỉ vài câu nhưng lột tả được cả khung cảnh, khí thế lẫn nỗi gian khổ của đoàn quân Tây tiến: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm- Heo hút cồn mây súng ngửi trời... Trường kì gian nan vượt qua núi rừng, giữa cảnh đèo heo hút gió nổi bật hình ảnh súng ngửi trời. Người cao lên, kéo trời thấp lại, khoa trương là bút pháp đắc địa trong việc diễn tả khí thế các chiến sĩ.
- Phá vỡ giới hạn hiện thực, giúp tác giả vượt ra ngoài những giới hạn của hiện thực để tạo ra những hình ảnh, cảm xúc độc đáo và bất ngờ. Về không gian thường ví von với những sự vật to lớn trong vũ trụ nào non cao, sông sâu, biển rộng, rung chuyển đất trời, kinh thiên động địa… Ví Công cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra là một thí dụ. Điển tích vá trời trong thần thoại Nữ Oa đội đá vá trời chỉ những sự việc vĩ đại của những vĩ nhân thường được vận dụng. Phan Chu Trinh trong Đập đá Côn Lôn đã viết: Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan nào há sự con con. Trong bài Gửi Phan Bội Châu, Tế Xương cũng tán thán: Vá trời gặp hội mây năm vẻ, Lấp biển ra công đất một hòn… Giang tay chống đỡ cột càn khôn (Gửi Phan Bội Châu). Sự việc, hành động đây được cường điệu, là phi thực tế nhưng lại có hiệu quả để thể hiện trạng thái tình cảm tán thán, thỏa mãn cảm xúc mạnh.
Mô tả cuộc giao tranh giữa nghĩa quân Lam Sơn với giặc Minh, Nguyễn Trãi viết: Ghê gớm thay, sắc phong vân phải đổi. Thảm đạm thay, ánh nhật nguyệt phải mờ (Bình Ngô đại cáo). Khốc liệt tới mức đổi màu mây gió, mờ mịt trời trăng, vũ trụ cũng kinh hoàng. Khí thế đó càng bùng lên mãnh liệt khi mô tả chiến thắng: Một hồi trống sạch không kình ngạc- Hồi trống nữa tan tác chim muông… Sự biến mạnh mẽ nhanh chóng, mới nghe tiếng trống thúc quân đã thấy hình ảnh quân giặc tan tác. Ngòi bút bay lên, hiện thực cuộc giao chiến giữa con người với con người bị phá vỡ, cả vũ trụ như bị kéo vào, tham gia vào để thể hiện tinh thần xung trận, cảm hứng chiến thắng ngút ngàn. Biện pháp này cũng thường được thấy trong các thiên anh hùng ca Hi Lạp, đặc biệt ở đây là các thần thánh trên trời cũng tham chiến, nhảy vào hỗ trợ các phe phái trần gian, chiến tranh không chỉ dưới đất mà lan rộng đến cả trên trời.
Về thời gian thường dùng để tán thán xưng tụng nào muôn năm, vạn thọ vô cương, thiên tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế… Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại cũng là cách nói khoa đại. Nhất nhật bất kiến như tam thu hề- Huống tam thu mà bất kiến hề- Đường kia nỗi nọ như chia tấm lòng (Ca dao). Nước chảy đá mòn là thành ngữ xưa nay, đến Bút Nguyên Tử trong Gởi bạn lại viết: Thời gian trôi dẫu nước cũng mòn. Nước mòn, một cách diễn đạt cường điệu chỉ sự ma chiết lạnh lùng, trường kì và khốc liệt của thời gian.
Động tác cũng cường điệu, vượt qua hiện thực, thoát khỏi giới hạn bình thường nhằm biểu hiện cao độ trạng thái cảm xúc. Hãy đọc một đoạn trong Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo: Ta thường tới bữa quên ăn- Nửa đêm vỗ gối- Ruột đau như cắt- Nước mắt đầm đìa- Chỉ căm tức chưa xẻ thịt lột da nuốt gan uống máu quân thù- Dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ- Nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng. Bút pháp khoa trương không nhằm mục đích miêu tả hoạt động, hành vi, động tác vật chất mà chỉ phóng đại hiện thực nhằm biểu hiện cao độ trạng thái xúc cảm tinh thần, tình cảm.
Vẻ đẹp của người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc được khoa đại tột cùng: Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn, Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa, Hương trời đắm nguyệt say hoa, Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình… Nguyễn Gia Thiều đã phóng bút ngợi ca vẻ đẹp, đẹp tới nỗi chim sa ca lặn, lay động cả những loài vô tình, làm cho hoa và trăng- những biểu hiện đẹp cũng phải say đắm, làm cho không những tuyệt thế giai nhân mà tiên nữ trên trời cũng đều khiếp hãi.
- Tập trung vào cảm xúc và chủ quan, nhấn mạnh cảm xúc và quan điểm của tác giả về đối tượng thay vì chỉ miêu tả khách quan.
Trước
hết cần có sự phân định một số thể
loại văn chương để
xác định việc sử
dụng bút pháp khoa trương.
Với các thể loại thần thoại, truyền thuyết,
cổ tích thần kì, truyện thần
tiên, võ lâm thần kì (truyện chưởng)… thì các yếu tố thần kì, hư ảo
được đưa vào để thay thế hiện thực, tác giả tạo ra một thế
giới ảo hóa và kéo người
đọc thâm nhập hòa lẫn vào. Phép
lạ biến hóa thần kì không tưởng nào đằng vân giá
vũ độn thổ tàng hình, nào đào biển đắp
núi tạo thiên lập địa trở thành
chuyện bình thường, người đọc
không cảm thấy vô lí hoang tưởng mà chấp
nhận như sự đương nhiên, chẳng có
gì là cường điệu khoa đại cả. Các biện
pháp tưởng tượng phóng đại
trong các tác phẩm thần
kì làm cho hiện thực bị thay bằng ảo tưởng, bị ảo tưởng hóa, lấy tưởng tượng thậm chí là hoang tưởng thay thế hiện thực, còn bút pháp khoa trương giúp hiện thực thăng hoa, bay lên cùng trí tưởng tượng.
Bút pháp khoa trương tập trung biểu hiện trạng thái tinh thần cá nhân, thể hiện xúc cảm, khí thế. Phạm Ngũ Lão trong Thuật hoài đã tán thán khí thế ngất trời của quân đội nhà Trần: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. Đội quân hùng mạnh dữ dội như beo cọp, nuốt cả sao Ngưu (có bản dịch là nuốt trôi trâu). Đặng Dung trong bài Cảm hoài cũng nói đến chí lớn: Vô cùng thiên địa nhập hàm ca- Gom cả đất trời vô tận vào miệng mà ca. Phò chúa những muốn xoay trục đất, Khó vạch mây để rửa vũ khí trên sông trời- Trí chủ hữu hoài phù địa trục, Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà (Không tìm được lối để kéo tuột dòng Ngân hà xuống mà rửa vũ khí). Ý chí lớn lao, muốn làm những việc lớn lao, kinh thiên động địa nhưng không gặp thời, tuổi già lại đến đành ôm hận, thất chí.
Hồ trường của Nguyễn Bá Trác (phóng tác từ Nam phương ca khúc (*) của tác giả khuyết danh Trung Quốc) là áng văn tiêu biểu của bút pháp khoa trương:
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về đông phương, nước bể đông chảy xiết sinh cuồng lam
Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vi vút, đá chạy cát dương;
Rót về nam phương, trời nam nghìn dặm thẳm, non nước một màu sương…
Bao uẩn khúc tâm tư, bao xót xa tâm sự như muốn trút hết vào gió mưa vạn vật, xoay một bầu rượu mà chuyển động bốn phương, rót đến đâu đất trời chao đảo đến đấy, bút pháp khoa trương đã cực tả được nỗi niềm bi thương, tráng khí dũng liệt của bao người ôm mộng lớn, có chí cả nhưng thất cơ lỡ vận.
5-11-25
-------------------
(*) Phụ ghi bản dịch Nam phương ca khúc của tác giả Khuyết danh, Trung Quốc:
Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời
Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
Quay đầu trông về nam, mịt mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.
Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ tìm ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này
Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng
Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng
Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác
Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét