MỤC LỤC BLOG

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

BÚT PHÁP KHOA TRƯƠNG

TIỂU  HÙNG TINH

ảnh internet

            Khoa  trương (khoa đại, phóng  đại,  nói  quá, cường  điệu) là thủ pháp nghệ thuật miêu tả sự vật, hiện tượng bằng cách làm tăng  đặc điểm của đối tượng. Khoa  trương là  nói phóng to lên, cần  phân  biệt   với nói  giảm (nói cho ít, cho nhỏ lại). Nói  ăn bữa  cả núi  cơm (ăn  quá nhiều- phóng  đại) khác với   ăn bữa  vài  hột cơm (ăn  quá ít- nói  giảm).

            Khoa trương có tác dụng:

- Tăng tính biểu cảm, khiến việc miêu tả trở nên sinh động, ấn tượng và có sức gợi cảm mạnh mẽ. 

Gươm mài  đá  đá núi  cũng mòn- Voi uống nước  nước sông phải  cạn, những câu trong áng thiên cổ hùng văn Bình  Ngô  đại cáo của Nguyễn Trãi thể  hiện khí thế oai  dũng ngút ngàn của nghĩa quân Lam  Sơn.  Hình   ảnh   được  phóng   đại, nói  quá  đi nhằm lột tả sức mạnh vô  song, sự  uy  dũng tột độ.

Ối chà ! Nguy hiểm và cao thay! Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh (Y hu hi! Nguy hồ cao tai! Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên! Lí Bạch tán thán đường  Thục khó rồi von, khó tới  mức không thể hình dung, đẩy sự tưởng tượng đến tột  cùng không tưởng- đường lên  trời.  Quang  Dũng phác họa tuy chỉ  vài  câu nhưng  lột tả   được  cả  khung   cảnh, khí thế lẫn nỗi gian  khổ  của   đoàn  quân Tây  tiến: Dốc  lên khúc khuỷu dốc thăm  thẳm- Heo hút cồn mây súng ngửi  trời... Trường kì gian nan  vượt qua núi  rừng, giữa cảnh đèo heo hút gió nổi bật hình ảnh súng ngửi  trời. Người cao lên, kéo trời thấp lại, khoa  trương là bút pháp  đắc địa   trong  việc  diễn tả  khí thế các chiến sĩ.

- Phá vỡ giới hạn hiện thực, giúp tác giả vượt ra ngoài những giới hạn của hiện thực để tạo ra những hình ảnh, cảm xúc độc đáo và bất ngờ. Về   không gian thường  ví von với những   sự vật to lớn trong vũ  trụ nào non  cao, sông  sâu,  biển  rộng,  rung chuyển đất trời, kinh  thiên động   địaCông cha như  núi Thái sơn, Nghĩa  mẹ như nước trong nguồn chảy ra là một  thí dụ. Điển tích     trời  trong  thần thoại  Nữ Oa  đội  đá vá   trời  chỉ  những  sự  việc   đại của những vĩ  nhân thường  được vận  dụng. Phan Chu Trinh  trong Đập  đá  Côn Lôn  đã  viết: Những kẻ vá  trời khi lỡ  bước, Gian nan nào   sự con con. Trong bài Gửi  Phan Bội Châu, Tế Xương  cũng tán thán:    trời gặp hội mây năm vẻ, Lấp  biển  ra công đất  một hòn… Giang tay chống  đỡ cột  càn  khôn (Gửi  Phan Bội Châu). Sự  việc, hành   động  đây  được cường  điệu, là phi thực tế nhưng  lại có  hiệu quả để thể hiện  trạng thái  tình cảm tán thán, thỏa  mãn cảm  xúc mạnh.

Mô tả  cuộc  giao tranh  giữa  nghĩa   quân  Lam Sơn  với  giặc Minh, Nguyễn Trãi  viết: Ghê  gớm thay, sắc phong  vân  phải đổi. Thảm  đạm thay, ánh nhật nguyệt phải  mờ (Bình Ngô đại cáo). Khốc liệt tới mức đổi  màu  mây gió, mờ  mịt trời  trăng, vũ  trụ cũng  kinh   hoàng. Khí thế  đó càng  bùng  lên mãnh  liệt khi mô tả chiến thắng: Một  hồi  trống  sạch  không kình ngạc- Hồi trống nữa  tan tác chim muông… Sự  biến   mạnh  mẽ  nhanh  chóng, mới nghe tiếng  trống thúc  quân  đã thấy  hình   ảnh quân  giặc  tan tác.  Ngòi  bút bay  lên, hiện thực   cuộc  giao chiến  giữa  con người với con người   bị phá  vỡ,  cả  vũ trụ như bị kéo  vào,  tham gia vào để thể hiện tinh thần xung trận, cảm hứng chiến thắng ngút ngàn. Biện  pháp  này  cũng thường   được thấy   trong các thiên anh hùng ca Hi Lạp, đặc biệt ở đây là các thần thánh trên trời cũng tham  chiến, nhảy vào hỗ  trợ các phe phái trần  gian, chiến tranh không chỉ dưới đất mà lan  rộng  đến cả trên  trời.

Về  thời  gian thường   dùng  để tán thán  xưng tụng nào   muôn năm, vạn thọ  vô cương, thiên tuế,  vạn tuế, vạn vạn tuế… Nhất nhật tại  tù thiên thu tại  ngoại cũng là  cách nói khoa đại. Nhất nhật bất  kiến như tam thu hề- Huống tam thu mà bất  kiến hề- Đường kia nỗi nọ như chia tấm lòng (Ca dao). Nước  chảy  đá mòn    thành  ngữ  xưa nay, đến Bút Nguyên Tử  trong Gởi  bạn  lại  viết: Thời  gian  trôi dẫu nước cũng mòn. Nước mòn, một  cách  diễn  đạt  cường   điệu  chỉ   sự  ma  chiết lạnh lùng, trường  kì và  khốc  liệt  của thời  gian.

Động tác cũng  cường điệu, vượt qua hiện thực, thoát  khỏi  giới hạn bình thường nhằm biểu hiện cao độ trạng thái cảm  xúc. Hãy  đọc một đoạn  trong  Hịch  tướng     của Trần Hưng Đạo:  Ta  thường tới bữa  quên ăn- Nửa đêm  vỗ  gối- Ruột đau như cắt- Nước mắt  đầm  đìa- Chỉ  căm  tức chưa  xẻ thịt lột  da nuốt  gan uống máu  quân thù- Dẫu  trăm thân này  phơi ngoài nội cỏ- Nghìn xác này gói trong  da ngựa, ta  cũng  vui lòng. Bút pháp  khoa  trương không nhằm mục  đích miêu tả hoạt động, hành  vi, động tác vật  chất mà chỉ phóng   đại  hiện thực nhằm  biểu  hiện cao  độ trạng thái xúc cảm tinh  thần, tình cảm.

Vẻ   đẹp  của  người  cung  nữ  trong Cung oán ngâm khúc  được  khoa  đại   tột cùng: Chìm  đáy nước cá lừ  đừ lặn, Lửng   da  trời nhạn ngẩn ngơ  sa, Hương trời đắm nguyệt  say hoa, Tây Thi mất vía Hằng Nga giật  mình… Nguyễn  Gia Thiều  đã  phóng bút ngợi  ca vẻ  đẹp,  đẹp tới  nỗi  chim  sa  ca lặn, lay  động cả những loài    tình, làm  cho  hoa  và trăng- những  biểu hiện  đẹp  cũng phải  say đắm, làm  cho  không những tuyệt thế  giai nhân   mà tiên nữ  trên  trời cũng đều khiếp  hãi.

- Tập trung vào cảm xúc và chủ quan, nhấn mạnh cảm xúc và quan điểm của tác giả về đối tượng thay vì chỉ miêu tả khách quan.

Trước hết  cần có sự phân định một  số thể  loại  văn chương  để   xác  định   việc sử  dụng  bút pháp  khoa trương. Với các thể loại thần thoại, truyền thuyết,  cổ tích thần  kì, truyện thần tiên, võ lâm thần kì (truyện chưởng)… thì các yếu tố thần  kì, hư ảo  được  đưa vào  để thay thế hiện thực, tác  giả  tạo  ra một thế  giới ảo  hóa và kéo  người  đọc thâm nhập  hòa lẫn  vào. Phép  lạ  biến hóa thần  kì không tưởng nào  đằng vân giá  vũ độn thổ tàng hình, nào đào  biển  đắp  núi tạo  thiên lập địa trở thành chuyện  bình thường, người  đọc  không cảm thấy    lí hoang tưởng  mà chấp  nhận như sự đương nhiên, chẳng  có gì là cường  điệu khoa đại cả. Các biện  pháp tưởng  tượng phóng   đại   trong  các  tác phẩm thần  kì làm  cho hiện thực bị thay bằng   ảo  tưởng,  bị  ảo  tưởng hóa, lấy  tưởng tượng thậm  chí là hoang tưởng thay thế hiện thực,  còn bút  pháp  khoa  trương  giúp hiện thực thăng hoa, bay  lên cùng  trí tưởng tượng.

Bút pháp  khoa trương tập  trung  biểu  hiện trạng thái  tinh thần cá nhân, thể hiện xúc cảm, khí thế. Phạm Ngũ  Lão  trong Thuật hoài  đã  tán thán khí  thế ngất  trời của quân đội nhà Trần: Tam  quân    hổ  khí thôn  Ngưu. Đội  quân hùng mạnh dữ  dội như beo  cọp, nuốt  cả  sao Ngưu (có bản  dịch là nuốt trôi trâu). Đặng  Dung  trong bài Cảm hoài cũng nói   đến  chí  lớn:   cùng thiên địa nhập  hàm  ca- Gom  cả  đất trời  vô tận vào  miệng    ca. Phò  chúa những  muốn  xoay  trục  đất, Khó vạch  mây để  rửa    khí trên sông  trời- Trí chủ hữu  hoài  phù  địa  trục, Tẩy  binh  vô lộ vãn thiên hà (Không tìm  được lối để kéo tuột dòng Ngân    xuống  rửa    khí). Ý  chí lớn lao, muốn  làm những  việc lớn  lao, kinh thiên động  địa nhưng không gặp  thời, tuổi già  lại  đến đành ôm hận, thất chí.

          Hồ  trường của  Nguyễn Bá Trác (phóng tác từ Nam phương  ca  khúc (*) của tác giả khuyết  danh Trung Quốc)  là áng văn tiêu  biểu của  bút pháp  khoa trương:

Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?

Rót về đông phương, nước bể đông chảy xiết sinh cuồng lam

Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan

Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vi vút, đá chạy cát dương;

Rót về nam phương, trời nam nghìn  dặm thẳm, non nước một màu  sương

            Bao uẩn khúc tâm tư, bao  xót xa tâm sự như muốn trút hết vào gió mưa vạn vật, xoay một bầu  rượu mà chuyển động bốn  phương,  rót đến đâu  đất  trời chao đảo đến  đấy, bút pháp   khoa trương  đã cực tả được nỗi niềm bi thương, tráng khí dũng liệt của  bao  người ôm  mộng lớn, có  chí  cả  nhưng thất cơ lỡ  vận.   

5-11-25

-------------------

(*) Phụ  ghi bản  dịch  Nam phương ca  khúc của tác  giả  Khuyết danh, Trung Quốc:

Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời

Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?

Quay đầu trông về nam, mịt mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt

Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.

Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ tìm ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này

Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng

Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng

Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác

Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn

Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm

Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét