TIỂU HÙNG TINH
ảnh internet
Chữ mang nghĩa, lời chuyển ý, trong văn chương, ngôn từ, hình tượng, các thủ pháp nghệ thuật đều nhằm chuyển tải một thông điệp về con người, cuộc đời… Cảm thụ văn chương chính là thưởng thức thức kết cấu, tình tiết, hình tượng, ngôn từ để khám phá những ý nghĩa, những giá trị ẩn chứa trong đó.
Điều đặc biệt trong văn chương là ngôn từ, các thủ pháp nghệ thuật nhằm biểu đạt nhưng lại ẩn giấu ý nghĩa. Hiểu ý qua lời, tìm ý trong lời, lời hàm chứa ý. Nói văn chương hàm súc hàm nghĩa ý tứ sâu xa, thậm chí ý tại ngôn ngoại (ý ở ngoài lời). Ý trong lời, không tách khỏi lời nhưng ý không phải là lời, giống như mối quan hệ linh hồn - thể xác, điểm vi tế trong văn chương là đó.
Ý nghĩa có nhiều tầng (tầng nghĩa) khác nhau, có tầng thấp tầng cao, có tầng hẹp tầng rộng, có nghĩa cạn nghĩa sâu, nghĩa đen nghĩa bóng, ý hiện (hiển ngôn), ý ẩn (ẩn ngôn, nghĩa hàm ẩn)…
Hãy nghe một câu ca dao: Tưởng giếng sâu anh (em) nối sợi dây dài, Ai ngờ giếng cạn anh (em) tiếc hoài sợi dây. Nghĩa cạn (hiển ngôn) của nó chỉ đơn giản là chuyện múc nước nhưng nghĩa hàm ẩn lại là chuyện “múc người”, một sự sai chệch nghiêm trọng không sao sửa chữa nổi đó là nhầm lẫn về hôn nhân. Tình tiết đơn giản nhưng ý nghĩa thâm sâu vô cùng tận.
Ẩn dụ cũng là thủ pháp hàm chứa tầng nghĩa. Thuyền ơi có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền, cây đa cũ bến đò xưa gợi hình ảnh người đi kẻ ở, lòng chung thủy đợi chờ.
Trong ngụ ngôn thì việc yêu cầu xác định tầng nghĩa càng rõ ràng. Từ hình ảnh, tập tính vật phải tìm được trong đó tính cách người, qua câu chuyện loài vật đồ vật phải tìm được giá trị, triết lí nhân sinh mà tác giả lồng vào đó, giấu trong đó. Cóc phình bụng cho bằng bò, phình tới bể bụng mà chết, chuyện đơn giản như nói mà chơi nhưng ám chỉ thói hoang tưởng của những kẻ kém cỏi coi trời bằng vung.
Hãy đọc một truyện ngụ ngôn của Bút Nguyên Tử:
ẾCH LÊN BỜ
Bị Rắn rượt, Ếch hoảng hồn nhảy xuống giếng. Ngày nọ, có người thả gàu múc nước, Ếch đeo được. Khi gàu được kéo lên đến miệng giếng, Ếch nhảy thoát.
Một hôm nghe tiếng Ếch kêu ộp ộp, chú Nhái bén mon men lại hỏi cảm tưởng từ ngày được lên bờ, Ếch ồm ồm:
- Trước đây, dưới đáy giếng, tớ chỉ thấy trời bằng cái mâm, tối tăm lạnh lẽo, thỉnh thoảng kiếm được vài ba con muỗi con gián cầm hơi. Lên được bờ thấy rạng rỡ bầu trời, bắt ăn được đủ thứ, tăng trọng lên cân nhanh, có điều lo lắm.
- Lo gì, thưa ông Ếch?
- Dưới đáy giếng tuy đói nhưng mình là bá chủ, lên đây no nhưng lúc nào cũng sợ, biết bao loài rình rập chực hại mình, lơ mơ mất cảnh giác là toi mạng.
- Thế sao ngài không nhảy xuống giếng trở lại cho an toàn?
Ếch nghe, hoảng hồn lủi mất.
1990
Đương nhiên ai cũng biết đây là chuyện mượn ếch nói người, ngụ ngôn mà! Nhưng nói chuyện gì? Chuyện ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung và lên bờ thấy trời mênh mông, chuyện đóng cửa giao thương ngăn sông cấm chợ bao cấp đói nghèo và mở cửa giao thương hòa nhập cạnh tranh thương trường là chiến trường, chuyện tất yếu phải theo kinh tế thị trường…
Nhờ thủ pháp ngụ ngôn, hàm ẩn ý nghĩa, chứa đựng triết lí mà ngụ ngôn có sức sống bền bỉ. Người đọc ở mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh khác nhau đều có thể tìm được trong đó bài học nhân sinh cho mình. Có thế, ngụ ngôn của Ê-dốp từ trước Công nguyên, ngụ ngôn La Fontaine từ thế kỉ 17 đến nay vẫn còn giá trị, vẫn mới.
Nhân vật AQ trong A Q chính truyện của Lỗ Tấn, một loại “vô sản lưu manh” ở nông thôn láu lỉnh, khoác lác, trịch thượng, bất tài, vô dụng, mau quên... Khái quát tất cả các tính cách đó là phép thắng lợi tinh thần của những kẻ hèn kém trong nông thôn Trung Quốc và khái quát hơn nữa đó là tính cách khoác lác, trịch thượng nhưng bạc nhược, hèn yếu của người Trung Hoa…
Trong Chí Phèo, Nam Cao xây dựng một nhân vật du côn thông qua các hình ảnh rượu chè be bét, chửi bới lung tung, rạch mặt ăn vạ. Hiểu sâu vào ý nghĩa phải tìm nguyên nhân, đó là do bị thế lực cường bạo vu oan giá họa đẩy vào tù tội làm cho bản tính lương thiện bị đánh mất và trở thành lưu manh. Cuối cùng là sự xung đột một mất một còn giữa nạn nhân và thế lực gây tội. Bài học xung đột giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới trong xã hội thực dân phong kiến, bài học đau đớn về tha hóa nhân tính, về quyền làm người lương thiện…
Trong các tác phẩm lớn, những chi tiết của nó lắm lúc hàm chứa một ẩn nghĩa, một triết lí sâu sắc, nếu chỉ xem đọc hời hợt thì không những không hiểu, không cảm nhận được sự thú vị mà có khi hiểu lệch, hiểu sai ý nghĩa tác phẩm. Trong Tây du kí, thầy trò Đường tăng đến Tây Trúc bái kiến Phật tổ Như Lai và được ban cho Tam tạng kinh điển mang về, giữa chừng phát hiện là kinh không chữ (vô tự) phải quay lại đổi. A Nan và Ca Diếp nhân cơ hội xiết luôn chiếc bình bát của Đường tăng rồi mới giao kinh có chữ. Mang về, dọc đường bị chim hất hết xuống nước, vớt lên phơi, một tờ cuối dính xuống đá không gở được, Tam tạng kinh điển thành ra thiếu chữ… Qua những chi tiết trên có vị nọ cho rằng kinh kệ cũng là sáng tác phẩm, đâu thể xài chùa mà phải trả nhuận bút, việc A Nan Ca Diếp siết bình bát cũng là cách đòi nhuận bút! Có vị lãnh đạo chóp bu lại giảng rằng đây là hối lộ, trên thượng tầng còn có tham ô nhũng nhiễu. Hiểu thế này thì ôi thôi rồi! A Nan và Ca Diếp là hai đại đệ tử chân truyền của Phật mà hối lộ thì đạo phật còn gì, đức Thích Ca biết chuyện này nhưng không xử lí, ngài chịu trách nhiệm liên đới cần phải rút khỏi tòa sen, lui về “làm người tử tế” cho xong, ô hô! Thế tầng nghĩa hàm ẩn ở đây thế nào? Kinh kệ là phương tiện tạm dùng để biểu đạt chân lí, không được nhầm lẫn kinh kệ với chân lí. Đức Phật từng dạy Ta thuyết pháp bốn mươi chín năm nhưng chưa nói một lời nào hàm nghĩa chân lí tối thượng vượt lên ngôn ngữ, kinh chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không phải mặt trăng, kinh vô tự mới thực chân kinh. Có điều, kinh vô tự thì làm sao đọc hiểu, truyền bá chánh pháp đành (cực chẳng đả) phải dùng kinh hữu tự. Ngôn ngữ là tương đối, ngay kinh có chữ đầy đủ cũng không hoàn hảo, không được tin tưởng một cách mù quáng mà phải sáng suốt, chủ động. Bình bát, vật quý tối thượng chân truyền bất li thân, tại sao có chi tiết tước đoạt ở đây? Muốn giác ngộ chân lí tối thượng thì người tu hành phải buông bỏ mọi thứ, bình bát là phương tiện tu hành tối hậu nhưng cũng là trở lực cuối cùng cản trở, nếu không dũng cảm buông bỏ thì không thể đắc đạo, không thể viên thành chánh quả. Qua sông dùng bè, muốn lên bờ phải bỏ bè, không đạp bè làm sao lên bờ, ý nghĩa buông bỏ cuối cùng là ở đó.
Lời để chuyển ý, tìm ý trong lời và cũng chính lời (ngôn ngữ, hình tượng, kết cấu) gợi lên những ý nghĩa, hàm ẩn ý tưởng thâm sâu nên nảy sinh ý tại ngôn ngoại, nhiều lúc ý tách hẳn lời. Chi tiết trong Tam quốc chí, Triệu Tử Long tả xung hữu đột cứu con trai trưởng của Lưu Bị là A Đẩu, khi bồng dâng lên cho chủ, Lưu Bị đỡ lấy, mắng: Vì mày mà chút nữa tao mất một vị đại tướng. Xong, ném phịch xuống đất. Hành vi này của Lưu Bị bị nhiều người đọc cho là động tác giả, làm bộ coi trọng tướng sĩ hơn cả con cái thực ra là thủ đoạn cao tay lấy lòng tướng sĩ mặc dù không có dòng nào chữ nào chỉ ra thủ đoạn của Lưu Bị cả. Chuyện Lưu Bị trối trăng rất chân thành với Khổng Minh rằng con mình bất tài vô dụng, nếu được thì thừa tướng thay nó mà làm vua. Chi tiết này cũng bị nhiều người đọc xem là thủ đoạn chặn trước, tiêu diệt mưu mô soán đạt ngôi báu của Khổng Minh từ trong trứng nước. Trong toàn bộ tác phẩm, tác giả cố ý miêu tả Lưu Bị là con người nhân đức cao cả, không dòng nào chữ nào thể hiện mưu đồ thủ đoạn của Lưu Bị thế nhưng người đọc vẫn gán ghép những ý nghĩa ngoài tác phẩm chỉ vì suy diễn rằng: Trong thế giới đầy rẫy thủ đoạn mà một kẻ bần hàn lên làm tướng, làm chúa rồi làm vua mà chỉ cần nhân nghĩa, không cần thủ đoạn thì đó là chuyện hoang tưởng. Thiếu thủ đoạn đã không tồn tại được huống gì không có thủ đoạn, đều thủ đoạn cả, có điều thâm kín cao tay hoặc thô vụng lộ liễu mà thôi. Tinh vi thủ đoạn, Lưu Bị là bậc thầy. Ý nghĩa người đọc tìm ra ở đây ngoài ý đồ tác giả mà xuất từ hiện thực, tác phẩm lại có cuộc sống bên ngoài bản thân nó, thể hiện mối quan hệ giữa logic tác phẩm và logic hiện thực. Có thể nói, trong trường hợp này, người đọc không bị dắt mũi, chỉ mượn tình tiết của tác phẩm để suy ngẫm ý nghĩa theo logic của mình, tình tiết thoát ra khỏi tác phẩm mà nhảy vào cuộc đời.
Người ta thường xem logic của các khoa học chính xác là logic trừu tượng, hướng đến nhận thức những quy luật trừu tượng, khái quát còn logic văn chương là logic hình tượng, một thuật ngữ không chuẩn, nhưng có thể được hiểu là sự kết hợp giữa logic hình thức (suy luận dựa trên cấu trúc và hình thức) và các hình thức biểu đạt khác (như hình ảnh, biểu tượng) để diễn đạt hoặc giải quyết vấn đề. Ngay cả ngôn ngữ cũng là ngôn ngữ hình tượng, từng chữ từng câu đều mang hình ảnh, nó đòi hỏi gợi cảm, nó không đòi hỏi minh xác hai cộng hai là bốn mà đòi hỏi liên tưởng thâm sâu. Các tầng nghĩa hình thành từ đó, không chỉ giúp người đọc nhận thức lí trí mà còn rung cảm cả tâm hồn.
20-10-25
Hùng ơi, LH mới đọc xong bài Trăng trong thơ Nguyễn Trãi qua Quốc Âm thi tập. Rồi nhớ lại bài Đoạn trường tân thanh và khi bóng trăng hiện của Ngô thời Đôn trong Giao cảm mùa hạ - số 7 , một đề tài hay nhưng Đôn viết cạn quá.
Trả lờiXóaGiao cảm đang khát loại bài dạng này, Hùng mà gửi đăng sẽ được hoan nghênh đó.
LH thì không dám và cũng không đủ năng lực để viết , nhất là sờ vào lĩnh vực vhcđ. Bái phục !
LH vừa đọc xong bài viết về Nguyễn Trãi và khá kinh ngạc về sức viết của Hùng . Đầu óc còn rất minh triết. Hùng nên gửi bài cho Giao Cảm đi.
Cám ơn Hùng, LH sẽ đọc. Đọc mấy bài Hùng viết trong phần Nghiên cứu - Phê bình ,LH rất thích. Bài nào cũng chắc tay về mặt kiến thúc, bản thân mình cũng học được nhiêu, bố cục mạch lạc. LH mê thể loại này lắm
Rất ngưỡng mộ một người bạn còn đam mê viết lách như Hùng !