MỤC LỤC BLOG

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

TẦNG NGHĨA TRONG VĂN CHƯƠNG

TIỂU  HÙNG TINH

ảnh internet

            Chữ  mang  nghĩa, lời chuyển ý, trong  văn  chương, ngôn từ,   hình tượng, các thủ pháp  nghệ  thuật   đều nhằm chuyển tải  một thông  điệp về con người,  cuộc đời…  Cảm thụ  văn chương chính  là thưởng thức  thức  kết  cấu,  tình tiết, hình tượng, ngôn từ để khám  phá những ý nghĩa, những giá  trị ẩn  chứa  trong  đó.

            Điều  đặc  biệt  trong   văn chương  là ngôn từ, các  thủ pháp  nghệ thuật nhằm  biểu  đạt  nhưng  lại  ẩn  giấu ý nghĩa. Hiểu ý  qua  lời,  tìm  ý  trong lời, lời hàm  chứa ý. Nói văn  chương hàm  súc hàm  nghĩa ý tứ  sâu  xa, thậm  chí ý tại  ngôn ngoại (ý ở ngoài lời). Ý trong lời, không tách khỏi lời  nhưng ý  không phải  là lời, giống như  mối  quan hệ linh  hồn - thể  xác, điểm  vi tế  trong văn chương là đó.

            Ý  nghĩa  có nhiều  tầng (tầng nghĩa) khác nhau,  có tầng thấp  tầng  cao, có  tầng hẹp tầng  rộng, có nghĩa  cạn   nghĩa   sâu, nghĩa  đen nghĩa bóng, ý hiện (hiển ngôn), ý  ẩn (ẩn ngôn, nghĩa hàm  ẩn)…

            Hãy nghe  một câu ca  dao: Tưởng giếng   sâu anh  (em) nối sợi  dây dài, Ai ngờ  giếng  cạn anh (em) tiếc hoài  sợi  dây. Nghĩa  cạn (hiển ngôn)  của  nó chỉ đơn  giản  là chuyện  múc nước nhưng   nghĩa  hàm  ẩn lại là  chuyện “múc người”, một  sự  sai chệch nghiêm  trọng  không sao  sửa chữa nổi  đó là nhầm lẫn về  hôn nhân. Tình   tiết đơn  giản nhưng ý nghĩa thâm  sâu    cùng tận.

            Ẩn  dụ cũng là thủ  pháp hàm  chứa  tầng nghĩa. Thuyền   ơi có nhớ bến chăng, Bến thì một  dạ  khăng khăng  đợi thuyền, cây đa cũ bến  đò  xưa  gợi hình   ảnh  người  đi kẻ  ở, lòng chung thủy đợi chờ.

            Trong ngụ  ngôn thì  việc  yêu cầu  xác  định tầng  nghĩa  càng     ràng. Từ hình  ảnh, tập  tính vật phải  tìm   được  trong  đó tính  cách người, qua  câu chuyện  loài  vật đồ vật   phải  tìm  được  giá  trị, triết  lí nhân sinh mà tác  giả  lồng vào  đó,  giấu  trong  đó.  Cóc  phình  bụng  cho bằng  bò,  phình  tới bể  bụng mà chết, chuyện đơn  giản  như nói mà chơi nhưng ám chỉ  thói hoang tưởng của  những kẻ  kém  cỏi  coi trời  bằng  vung.

            Hãy  đọc một  truyện ngụ ngôn của  Bút Nguyên Tử:

ẾCH  LÊN  BỜ

Bị Rắn rượt, Ếch hoảng hồn nhảy xuống giếng. Ngày nọ, có người  thả gàu múc nước, Ếch đeo được. Khi gàu được kéo lên đến miệng giếng, Ếch nhảy thoát.

          Một hôm nghe tiếng Ếch kêu ộp ộp, chú Nhái bén mon men lại hỏi cảm tưởng từ ngày được lên bờ, Ếch ồm ồm:

          - Trước đây, dưới đáy giếng, tớ chỉ thấy trời bằng cái mâm, tối tăm lạnh lẽo, thỉnh thoảng kiếm được vài ba con muỗi con gián cầm hơi. Lên được bờ thấy rạng rỡ bầu trời, bắt ăn được đủ thứ, tăng trọng lên cân nhanh, có điều lo lắm.

          - Lo gì, thưa ông Ếch?

          - Dưới đáy giếng tuy đói nhưng mình là bá chủ, lên đây no nhưng lúc nào cũng sợ, biết bao loài rình rập chực hại mình, lơ mơ mất cảnh giác là toi mạng.

          - Thế sao ngài không nhảy xuống giếng trở lại cho an toàn?

          Ếch nghe, hoảng hồn lủi mất.

1990

            Đương  nhiên  ai cũng biết đây    chuyện  mượn  ếch nói người, ngụ ngôn mà! Nhưng nói chuyện gì? Chuyện  ếch ngồi  đáy  giếng coi  trời  bằng  vung  và lên bờ thấy  trời mênh mông,  chuyện  đóng cửa  giao thương ngăn  sông  cấm chợ bao  cấp đói nghèo và  mở  cửa giao thương hòa nhập cạnh  tranh thương  trường  là chiến  trường, chuyện  tất yếu phải theo kinh tế thị  trường…

            Nhờ thủ  pháp  ngụ  ngôn, hàm  ẩn ý nghĩa, chứa đựng  triết  lí mà ngụ ngôn  có sức  sống bền bỉ. Người  đọc ở mỗi  thời  đại, mỗi  hoàn cảnh khác nhau đều có thể  tìm  được   trong  đó bài học nhân sinh  cho mình. Có thế, ngụ ngôn của Ê-dốp từ  trước Công nguyên, ngụ ngôn  La Fontaine từ thế  kỉ 17  đến nay vẫn còn  giá trị, vẫn  mới.

            Nhân vật AQ  trong A Q  chính  truyện của Lỗ Tấn, một  loại “vô sản lưu  manh” ở nông thôn láu lỉnh, khoác lác,  trịch thượng, bất tài, vô  dụng, mau quên... Khái   quát tất  cả  các tính  cách  đó là   phép  thắng lợi tinh thần của những kẻ hèn kém  trong nông thôn Trung Quốc và  khái  quát  hơn nữa  đó    tính  cách khoác lác, trịch thượng  nhưng bạc nhược, hèn yếu của người  Trung Hoa…

            Trong Chí Phèo, Nam Cao xây  dựng một nhân vật du  côn thông qua  các hình  ảnh  rượu chè be  bét, chửi  bới lung tung, rạch mặt  ăn vạ. Hiểu  sâu vào  ý nghĩa phải tìm nguyên  nhân, đó là do bị thế  lực cường bạo vu  oan giá họa  đẩy vào    tội  làm cho  bản tính lương thiện  bị  đánh mất và  trở thành lưu  manh. Cuối  cùng    sự  xung  đột  một mất một  còn   giữa  nạn  nhân và thế  lực gây tội. Bài  học xung  đột giữa tầng lớp  trên và tầng lớp  dưới  trong    hội thực  dân   phong kiến, bài  học đau  đớn về tha  hóa nhân tính, về  quyền  làm người lương thiện…

            Trong  các tác phẩm lớn, những chi  tiết  của  nó lắm lúc  hàm chứa một  ẩn nghĩa, một  triết    sâu sắc, nếu  chỉ  xem  đọc  hời  hợt  thì không những không hiểu, không  cảm nhận   được sự thú  vị  mà có khi hiểu  lệch, hiểu  sai ý nghĩa  tác phẩm. Trong Tây du  kí, thầy  trò Đường tăng  đến Tây Trúc bái kiến Phật  tổ Như Lai và  được ban   cho Tam tạng kinh  điển mang về, giữa  chừng phát hiện  là kinh  không chữ (vô tự) phải  quay lại đổi. A Nan và Ca Diếp nhân cơ  hội xiết luôn chiếc  bình  bát của  Đường  tăng rồi  mới giao  kinh  có chữ. Mang về,  dọc đường  bị  chim hất hết xuống nước, vớt  lên  phơi, một tờ cuối dính   xuống  đá không  gở được, Tam tạng  kinh   điển thành ra thiếu chữ… Qua những chi  tiết trên   có vị  nọ cho rằng  kinh  kệ  cũng là  sáng tác phẩm,  đâu thể  xài chùa  mà phải  trả nhuận  bút, việc A Nan Ca Diếp siết   bình  bát cũng    cách đòi nhuận bút! Có vị lãnh   đạo  chóp bu lại  giảng rằng đây     hối lộ, trên thượng tầng   còn có tham ô  nhũng nhiễu. Hiểu  thế này  thì ôi thôi rồi! A Nan và Ca Diếp  là hai  đại  đệ tử chân truyền của  Phật  mà hối lộ  thì  đạo phật  còn  gì,  đức Thích Ca biết  chuyện này nhưng  không  xử  lí, ngài chịu trách nhiệm liên đới cần phải rút  khỏi tòa  sen, lui  về “làm người tử tế” cho  xong, ô hô!  Thế  tầng nghĩa hàm  ẩn ở  đây thế nào? Kinh  kệ là phương tiện  tạm  dùng   để biểu  đạt chân  lí, không  được nhầm lẫn kinh kệ  với chân  lí. Đức Phật từng dạy  Ta  thuyết  pháp  bốn mươi chín năm  nhưng chưa nói một lời  nào  hàm nghĩa chân    tối  thượng  vượt lên ngôn ngữ, kinh chỉ     ngón tay chỉ mặt  trăng chứ  không phải  mặt  trăng, kinh    tự  mới thực chân kinh. Có điều, kinh     tự  thì làm  sao đọc hiểu, truyền bá chánh pháp đành (cực chẳng  đả) phải dùng  kinh  hữu tự. Ngôn ngữ  là tương  đối, ngay  kinh  có chữ đầy đủ cũng  không hoàn hảo, không  được tin tưởng một cách mù  quáng mà phải  sáng  suốt, chủ động. Bình  bát, vật  quý  tối thượng  chân  truyền bất  li thân, tại sao có   chi tiết tước đoạt ở  đây? Muốn  giác ngộ chân  lí tối thượng thì người tu hành phải  buông bỏ mọi thứ, bình  bát  phương  tiện tu hành  tối  hậu  nhưng  cũng là  trở  lực  cuối cùng cản   trở, nếu  không dũng  cảm buông bỏ thì  không thể đắc  đạo,  không thể  viên thành chánh  quả. Qua sông  dùng bè,  muốn  lên  bờ phải  bỏ  bè, không  đạp    làm  sao lên  bờ, ý  nghĩa  buông bỏ  cuối cùng là ở đó.

            Lời  để  chuyển ý, tìm ý  trong  lời và cũng  chính lời (ngôn ngữ, hình tượng, kết cấu) gợi  lên những ý  nghĩa, hàm ẩn ý tưởng thâm  sâu nên nảy  sinh  ý tại  ngôn ngoại, nhiều  lúc ý tách hẳn  lời. Chi tiết  trong Tam quốc chí, Triệu Tử Long tả  xung   hữu  đột cứu con  trai trưởng của Lưu Bị là A   Đẩu, khi bồng   dâng  lên cho chủ, Lưu Bị đỡ  lấy, mắng:   mày  mà chút nữa tao  mất  một vị đại tướng. Xong, ném phịch xuống  đất. Hành  vi này của Lưu Bị bị  nhiều  người  đọc cho là động tác giả, làm  bộ coi  trọng tướng sĩ  hơn cả con cái thực ra  là thủ  đoạn cao  tay lấy lòng tướng   sĩ mặc    không    dòng nào chữ nào chỉ ra thủ  đoạn của  Lưu  Bị  cả.  Chuyện Lưu   Bị  trối trăng rất  chân thành với Khổng Minh  rằng con  mình  bất tài vô dụng, nếu  được thì thừa tướng thay nó mà làm vua. Chi tiết này  cũng  bị nhiều  người  đọc   xem  là thủ  đoạn  chặn trước, tiêu diệt  mưu mô  soán đạt ngôi báu của Khổng Minh  từ trong trứng nước.  Trong toàn  bộ tác phẩm, tác giả  cố ý  miêu tả   Lưu Bị     con người nhân đức cao cả, không   dòng nào  chữ nào  thể  hiện mưu đồ thủ  đoạn của Lưu Bị  thế nhưng người  đọc  vẫn gán ghép những ý  nghĩa ngoài  tác phẩm chỉ     suy    diễn  rằng: Trong thế giới đầy rẫy thủ  đoạn mà một kẻ bần hàn  lên  làm tướng, làm chúa  rồi  làm  vua mà chỉ cần nhân nghĩa, không  cần thủ  đoạn thì  đó là chuyện  hoang tưởng. Thiếu thủ  đoạn đã  không tồn tại  được huống gì  không  có thủ  đoạn,  đều thủ  đoạn  cả, có điều  thâm kín cao  tay hoặc thô vụng lộ liễu  mà thôi. Tinh  vi thủ  đoạn, Lưu Bị là bậc thầy. Ý nghĩa   người  đọc  tìm ra ở  đây ngoài  ý đồ tác  giả    xuất từ hiện thực, tác phẩm  lại  có cuộc   sống bên ngoài  bản thân nó, thể hiện mối  quan hệ   giữa logic tác phẩm  và logic hiện thực. Có thể nói,  trong trường hợp  này, người  đọc không bị dắt  mũi,  chỉ mượn tình tiết của tác phẩm  để   suy  ngẫm ý nghĩa theo logic của mình, tình tiết thoát ra    khỏi tác  phẩm  mà nhảy vào  cuộc đời.

            Người  ta thường   xem  logic của các khoa học chính  xác là  logic  trừu tượng, hướng  đến nhận thức những  quy  luật  trừu  tượng, khái  quát  còn   logic   văn chương    logic hình  tượng, một thuật ngữ không chuẩn, nhưng có thể được hiểu là sự kết hợp giữa logic hình thức (suy luận dựa trên cấu trúc và hình thức) và các hình thức biểu đạt khác (như hình ảnh, biểu tượng) để diễn đạt hoặc giải quyết vấn đề. Ngay  cả  ngôn ngữ  cũng là ngôn ngữ hình tượng, từng chữ  từng   câu đều  mang   hình   ảnh, nó đòi  hỏi  gợi cảm, nó  không đòi  hỏi  minh   xác  hai  cộng hai là  bốn  mà đòi  hỏi liên tưởng thâm  sâu. Các  tầng nghĩa  hình thành  từ  đó, không chỉ  giúp  người  đọc  nhận thức lí  trí    còn  rung cảm cả tâm  hồn.

20-10-25

1 nhận xét:

  1. Hùng ơi, LH mới đọc xong bài Trăng trong thơ Nguyễn Trãi qua Quốc Âm thi tập. Rồi nhớ lại bài Đoạn trường tân thanh và khi bóng trăng hiện của Ngô thời Đôn trong Giao cảm mùa hạ - số 7 , một đề tài hay nhưng Đôn viết cạn quá.
    Giao cảm đang khát loại bài dạng này, Hùng mà gửi đăng sẽ được hoan nghênh đó.
    LH thì không dám và cũng không đủ năng lực để viết , nhất là sờ vào lĩnh vực vhcđ. Bái phục !
    LH vừa đọc xong bài viết về Nguyễn Trãi và khá kinh ngạc về sức viết của Hùng . Đầu óc còn rất minh triết. Hùng nên gửi bài cho Giao Cảm đi.
    Cám ơn Hùng, LH sẽ đọc. Đọc mấy bài Hùng viết trong phần Nghiên cứu - Phê bình ,LH rất thích. Bài nào cũng chắc tay về mặt kiến thúc, bản thân mình cũng học được nhiêu, bố cục mạch lạc. LH mê thể loại này lắm
    Rất ngưỡng mộ một người bạn còn đam mê viết lách như Hùng !

    Trả lờiXóa