NGUYỄN VĂN HÙNG
Ảnh internet
Xuôi một vòng từ Sài Gòn đến Cà
Mau, lang thang vài nơi ở Nam Bộ hoặc dõi mắt theo các địa danh trên bản đồ,
bạn sẽ thấy sự tương ứng kì lạ tên đất
giữa các địa phương. Có thể phân thành 3 hướng đặt tên đất ở Tây Nam bộ.
1.
Tên theo tiếng Khmer: Tập trung ở Trà Vinh và Sóc Trăng là hai tỉnh có cộng
đồng người Khmer nhất. Nào Bưng Tróp, Sróc Bưng, Sróc Kheang (Sóc
Trăng), nhất là Trà: Trà Vinh, Trà Cú, Trà Tim, Trà Men, Trà Sên… Cũng do người
Khmer là một trong những cư dân có mặt
sớm trên vùng đất mới này nên để lại một số dấu ấn trong tên gọi một số địa
danh.
2.
Hướng thứ hai đặt tên thuần Việt trải rộng trên toàn địa bàn. Tên nôm na dân dã
tỏ rõ nét nông dân hồn hậu chất phác.
Hướng đặt tên này được phân thành hai mảng (cách).
-
Mảng 1: Đó là lấy danh từ chung chỉ sự
vật + đặc điểm riêng biệt của sự vật đó (có thể là đặc điểm về người, vật, cây cối, hình thể…):
Rạch Miễu, Kinh Ông, Kinh Cùng, Đầm Dơi, Bến Tre, Bến Nghé, Cồn Ấu, Hòn Chông,
Cù Lao Dung, Gò Quao, Giồng Riềng, Ngã Năm, Ngã Bảy, Vàm Cống, Vàm Cỏ, Xẻo Tra,
Xẻo Bướm…
-
Mảng 2: Một loại tên dân dã nữa đắt theo công thức Cái +
… Cái là từ chỉ loại, kết hợp vớ mô5t đặc điểm nào đó để tạp thành tên riêng của đất. Đặc điểm đứng sau loại từ này
rất lạ, dân dã nhưng rất khó hình dung nghĩa. Nào cái Vồn (Vồn là gì?), Cái
Bàu, Cài Răng, Cái Tắc, Cái Côn, Cái Cui, Cái Dầu, cái Nước…
Một
lần trên chuỵến xe ngang qua Cái Tắc (Hậu Giang), tôi nói vui rằng Cái Tắc gần
Cái Răng (TP Cần Thơ), chắc người ta dựa
vào câu tục ngữ Cái răng cái tóc là vóc
con người. Cái Tắc đây có thể do phát âm chệch của Cái Tóc? Anh bạn tôi
cười bảo không đâu, Cái Tắc chứ, tắc rồi đến cùng, đi một đoạn nữa sẽ tới Kinh
Cùng (Hậu Giang).
3.
Hướng đặt tên thứ ba là lấy các âm Hán Việt trang trọng, bóng bảy, mựợt mà để đặt. Nào Long An, Tiền Giang, Hậu Giang,
Vĩnh Long, Hà Tiên, Tân Châu, Châu Thành… Những tiếng thường được chú ý và có
tần số đặt cao: Mĩ, An, Phú, Nhơn, Long như Long Mĩ, Long Phú, Mĩ Xuyên, An
Giang, An Phú, Châu Phú, Nhơn Ái, Nhơn Mĩ, Phú Quốc…
Đặc
biệt có một số âm Hán Việt được đọc trại ra: Thái --> Thới (Thới Bình, Thới
Lai, Thạnh Thới An), Thịnh --> Thạnh (Thạnh Phú, Thạnh Trị), Quý -->
Quới (Thạnh Quới), Nhân --> Nhơn (Nhơn Ái, Nhơn Mĩ), Nghĩa -->
Ngãi (Đại Ngại, Nam Ngãi)…
Có
thể nói tên đất là một phần hồn của đất và của người. Ước sao có những công trình
đi sâu lí giải nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét