TIỂU TỬ VĂN
butnguyentu.blogspot.com
butnguyentu.blogspot.com
Ảnh internet
ĐỎ (từ Hán Việt là
hồng): tính từ chỉ màu sắc. Có thể giảm độ biểu hiện của từ này bằng cách láy
như đo
đỏ (hồng hồng)- hơi đỏ hoặc tăng độ biểu hiện bằng cách ghép: đỏ
au, đỏ rực, đỏ chóe, đỏ hỏn, đỏ hoe (Ngày đi lúa chửa chia vè- Ngày về
lúa đã đỏ hoe khắp đồng), đỏ lòm, đỏ chót (có khi nhấn mạnh
tạo ân tượng còn nói là đỏ lòm lòm, đỏ chót chót)- hàm nghĩa rất đỏ, độ biểu
hiện có tính tuyệt đối. Ngoài ra còn có biện pháp so sánh để tạo ra thành ngữ: đỏ
như son (Còn cha gót đỏ như son (ca dao), Đỏ thì son đỏ mực thì đen
(Quốc âm thi tập- Nguyễn Trãi)), đỏ như vang, đỏ như gấc, đỏ như mặt gà chọi,
đỏ hây hây (Mấy cô má đỏ hây hây- Đội bông như thể đội mây về nhà (ca
dao mới)).
Đỏ còn biểu hiện trạng thái tâm
sinh lí . Đỏ da thắm thịt (hồng hào) chỉ trạng thái thể chất tốt, đỏ
mặt chỉ trạng thái mắc cỡ, đỏ mặt tía tai lắm khi còn là dấu
hiệu hứng khởi sinh lí. Xanh vỏ đỏ lòng ám chỉ kẻ dối trá bộ
dạng một đằng tâm địa một nẻo. Đỏ mắt là bệnh- Nhất đỏ mắt nhì chắt (nhức) răng, đỏ mắt cũng có nghĩa khóc- mắt
đỏ hoe, đỏ mắt trông chờ.
Một số thổ dân ở châu Mĩ được gọi
là dân da đỏ. Dân đen con đỏ chỉ người dân trong
xã hội phong kiến, Nguyễn Trãi từng lên án tội ác của quân Minh: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi
con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” (Bình Ngô đại cáo). Cùng là da
vàng máu đỏ ý chỉ cùng là người Việt, đồng chủng.
Đỏ cũng biến nghĩa để chỉ sự may
mắn, hên: số đỏ, chơi trò cờ bạc đỏ (hên) đen (xui), chỉ chất
cộng sản (hồng- phân biệt với chuyên). Trước đây, có loại thuốc sát trùng màu
đỏ gọi là thuốc đỏ; sổ đỏ chỉ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; thẻ đỏ chỉ thẻ đảng cộng sản; cờ đỏ chỉ người hay lực lượng bảo vệ
trật tự; đèn đỏ- tín hiệu dừng
trong giao thông cũng còn chỉ người được số phiếu thấp nhất (về chót- cầm
đèn đỏ) trong bầu cử; nai
(gà) móng đỏ chỉ gái làng chơi; đỏ ngực (được tưởng thưởng, thăng
tiến)- một xanh cỏ (chết) hai đỏ ngực (tương đương với Một hóa long hai xong
máu); trâu đỏ (máy kéo)- Trâu
đen ăn cỏ trâu đỏ ăn gà (đả kích chuyện công nhân máy kéo quốc doanh eo
sách, bắt cung phụng khi về cày cho các hợp tác xã); những nhà “vô sản” nhờ tham lạm mà có tài sản vốn liếng làm ăn riêng quá lớn bị dân mỉa mai là “tư
sản đỏ”.
Thời Nguyễn, tên vua Tự Đức là
Hồng Nhậm, do kị húy nên người dân phải đọc trại nói trại thành hường.
Nói màu hường cũng chính là màu hồng, màu đỏ. Cũng thời Nguyễn, có lính khố
xanh, lính khố đỏ (gọi vậy vì ngang thắt lưng có màu xanh hoặc đỏ chứ không phải mang khố). Lính khố
xanh là lính triều đình, lính khố đỏ phục vụ cho Pháp. Trong ngũ hành (kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ), hành hỏa ở phương nam ứng với màu
đỏ. Trong hội họa, màu đỏ là màu nóng, dương tính.
Là tính từ, đỏ có thể chuyển
loại thành động từ. Nói mặt đỏ thì đỏ trong trường hợp này
là tính từ nhưng nói đỏ mặt thì đỏ đã chuyển thành động
từ. Đỏ trong đỏ đèn đỏ đuốc là động tác đốt đèn đốt đuốc lên cho sáng. Nói Một xanh cỏ (chết) hai đỏ ngực (được huy chương) cũng như Một hoá long hai xong máu.
Trong bàn cờ tướng, có quân
xanh,
quân đỏ. Người khiêm tốn thường cầm quân xanh để đi trước. Đánh cờ tướng ăn quân cũng vậy, ngang nhau
thì quân đỏ thì ăn quân xanh. Quân xanh cũng để chỉ những kẻ làm quân bài lót đường, nhận lệnh ứng cử để thất cử. Còn những kẻ về chót trong cuộc bầu cử thì bị gọi là cầm đèn đỏ.
3- 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét