ảnh internet
Vật
chất vận động, tồn tại và phát triển trong không gian và thời gian, đó là nhận
thức triết học, trong thực tế không thể tách rời hai phạm trù này. Mở đầu
truyện Kiều, cụ Nguyễn Du viết: “Trăm năm
trong cõi người ta”, trăm năm là thời gian, cõi người ta là một sự giới hạn phạm vi không gian. Không gian thì con người có thể nhìn thấy, sờ nắn… thời gian không vậy, phải
dùng tư duy để nhận biết. Tuy thế, người ta vẫn cứ muốn tri giác, muốn cảm nhận
nó.
Chỉ xét riêng về thời
gian thì có thời gian vật lí và thời gian tâm lí. Theo thời gian vật lí thì 1
giờ có 60 phút, 1 phút bằng 60 giây, 1 ngày có 24 giờ…biểu trưng của nó là cái
đồng hồ, quyển lịch. Trong toán học cũng đề cập đến thời gian như là chuỗi (vận
động) vừa là điểm (đứng im). Còn thời gian tâm lí thì không thế, có thể dừng lại,
có thể trôi, có thể lùi vào quá khứ xa xăm, có thể nhảy băng vào tương lai, có
thể nhanh chậm, không đồng đều.
Do vậy, thời gian tâm
lí tuy có nét chung nhưng chỉ tồn tại trong mỗi cá thể. Ngày vui qua mau, ngày
buồn lê thê, chờ thì chậm đến, chán thì chậm qua. Cùng một lúc nhưng tâm trạng
hai người khác nhau thì thời gian tâm lí ở họ cũng khác nhau, chuyển biến tùy
thuộc cá thể.
Trong văn chương, chủ
thể sáng tạo của nó là cá nhân, dù là văn chương bình dân mà tác giả của nó
được xem là tập thể thì người khởi xướng, người sáng tạo đầu tiên hoặc người
sáng tạo bổ sung đều tìm cách lưu dấu ấn riêng của mình. Vấn đề là cái riêng đó phải độc đáo vừa phù hợp với não trạng chung.
“Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, cái vui muốn giữ thì mau qua, sinh
ra tiếc nuối. “Ngày xuân con én đưa thoi”
(Kiều), mùa xuân biểu tượng sức sống,
của sự trẻ trung, tràn trề sinh khí ai mà chẳng muốn lưu giữ, muốn đắm mình vào
đó nhưng rồi như một thoáng “con én đưa thoi”. Thời gian ma chiết tất
cả, nhất là với tuổi xuân và sắc đẹp, những vết hằn thời gian dù phấn son cũng
khó che lấp: “Bóng câu thoáng bên mành
mấy nỗi, Những hương thừa phấn tủi bao xong” (Cung oán ngâm khúc- Nguyễn Gia Thiều). Vết hằn năm tháng đậu mắt mi” chi tiết rất nhỏ nhưng rất tiêu biểu
của thời gian mà Nguyễn Phú Liêu đã nhận ra trong Gặp lại học trò cũ ở Vĩnh Châu. Xuân Diệu cũng hối hả trong tình
yêu: “Mau với chứ vội vàng lên với chứ,
Em em ơi tình non đã già rồi”. Từ non
đến già là một trạng thái đột biến nên thời gian cũng gấp gáp. Trái lại,
nỗi buồn thì lê thê, điều mình muốn xua đi, muốn cắt đứt thì nó dai dẳng đeo bám, “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở tù nghìn thu ở
ngoài) (Cổ thi). Trông mong chờ đợi
thì lâu tới: “Nhất nhật bất kiến như tam
thu hề, Huống chi tam thu mà bất kiến hề, Đường kia nỗi nọ như chia tấm lòng”
(Ca dao). Có sự chờ đợi nào mà không mòn mỏi với thời gian, người chinh phụ
phải hóa đá trông chồng. “Ba thu dọn lại
một ngày dài ghê” (Kiều). Người phụ
nữ trong bài Thăm lúa (Thơ Trần Hữu
Thung) có chồng đi kháng chiến cũng mong ngóng mỏi mòn với cách đếm thời gian
thô sơ nhưng chân chất ấn tượng: “Xòe bàn
tay bấm đốt, Tính đã mấy năm tròn, Người ta bảo đừng trông, Ai cũng nhủ đứng
mong, Riêng em thì em nhớ”. Ước thu ngắn chừng nào thì thời gian càng kéo
dài lê thê như cấp lũy thừa, thời gian bao giờ cũng nghịch lại với những ước
mong của con người.
Chinh phụ ngâm khúc có cách biểu đạt thời gian rất đặc sắc để diễn tả nỗi lòng người chinh phụ, hồi tưởng những ước hẹn của người ra đi làm cho người ở lại càng khắc khoải mong chờ. Ở đây, thời gian hiện diện độc đáo qua những dấu hiệu tiếng chim và hoa, chuyển dịch theo từng mùa.
"Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại hót trước nhà líu lo"
"Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã cuốn gió đông
Phù dung đã nở bên sông bơ thờ"
Người chinh phu ra đi mùa đông (oanh chưa bén liễu, mai chưa dạn gió) và hẹn ước chừng khoảng cuối xuân đầu hạ (chỉ độ đào bông, ước nẻo quyên ca) sẽ trở về nhưng rồi xuân qua (đào đã cuốn gió đông), hạ đến (quyên đã giục oanh già) rồi qua (Phù dung đã nở bên sông bơ thờ) và mùa thu đã đến (Ý nhi lại hót trước nhà líu lo), bóng hình chinh phu vẫn biền biệt.
Sự vật, khung cảnh được chọn lựa để biểu hiện thời gian tạo ấn tượng đặc sắc, càng nổi lên chừng nào thì càng nhói sâu nỗi nhớ nhung khôn xiết của người chinh phụ.
Thời gian cùng với nhớ mong thường kết tụ thành một biểu tượng điển hình: Đá Vọng Phu- "Vọng Phu xưa cũng trông chồng Thời gian mòn mỏi má hồng phôi pha" (Ca dao).
Thời gian có chiều ngược của nó, lùi về dĩ vãng, có khi để con người
cảm nhận cái “bản lai diện mục” của mình: “Trộm
nhớ thuở gây hình tạo hóa” (Cung oán
ngâm khúc- Nguyễn Gia Thiều), có khi để làm sống lại những cảnh đời, con
người. Truyện cổ tích thường bắt đầu bằng “Ngày
xửa…ngày xưa…” chậm rãi kéo người nghe, đưa tâm hồn người nghe nhập vào thế
giới quá vãng… Quá khứ- hiện tại lẫn vào nhau, đắp đổi nhanh chóng: “Xưa sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác
như hoa giữa đường” (Kiều).
Thời gian tương lai
cũng được cảm nhận. Khi giao kỉ vật cho Thúy Vân nhờ thay mình nối duyên với Kim Trọng, Kiều
mường tượng “Mai sau dù có bao giờ, Đốt
lò hương ấy so tơ phím này, Trông ra
ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Thời gian gắn với
sự liên tưởng tâm lí.
Thời gian vật lí phân
chia rõ rệt đến từng giây thậm chí cả phần nghìn giây, tách bạch quá khứ, hiện
tại, tương lai, chính xác mà siêu hình. Thực tế thời gian là một chuỗi, không
thể có lát cắt phân định. Quá khứ, tương lai dù xa cách mấy cũng cò thể hiện diện ngay trong hiện tại thông
qua kí ức, tưởng tượng. Tản Đà từng tưởng tượng cảnh Lưu Nguyễn lên tiên: “Cửa động- Đầu non- Đường lối cũ- Nghìn
năm thơ thẩn bóng trăng chơi”. Khuyên Từ Hải ra hàng, Kiều cũng nhấn: “Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào”.
“Nghìn năm” đây là một nhất thể quá khứ- hiện tại- tương lai.
Đo thời gian bắng cách
đo vật lì dù chính xác nhưng khó tạo ấn
tượng, khó có sức sống, phải đặt vào đó tâm trạng, tâm lí thì thời gian mới hiển hiện. “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (Thăng Long thành hoài cổ- Bà Huyện Thanh
Quan), tuế (năm), nguyệt (tháng), năm tháng được biểu hiện gắn với không gian
và tâm trạng hoài cổ. Người ta cũng thường dùng các yếu tố sự vật để biểu dạt
thời gian. Nếu nói ba năm thì nghe vô cảm, vô hồn nhưng khi nói “Cam ba lần
có trái, Bưởi ba lần ra hoa” (Thăm
lúa) thì thời gian hiện ra như có thể cấm nắm được. Nguyễn Xuân Sanh có câu thơ bị xem là hũ nút: "Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà". Có thể nơi đáy đĩa nhỏ nhoi có hình vẽ con thuyền hay con sóng gì đấy đã được tác giả liên tưởng, không chỉ con nước lớn ròng mà lớn lao hơn, đến sự biến di của thời gian theo chu kì không gian, mùa đi theo nhịp sông biển.
Trong không gian chứa
cả thời gian, có thể cảm nhận đêm khuya khi nghe nước nhỏ giọt, khi nghe tiếng
suối tuôn róc rách, thời gian ẩn mình, dù không một từ nào nói đến nhưng nó vẫn
hiện ra thông qua những dấu hiệu tinh tế như một chút âm thanh. Thời gian có
thể dàn trải, trôi hoặc gom lại, diễn biến nhanh hay chậm lệ thuộc vào tâm
lí. Cái nhạt nhẽo vô vị thiếu ấn tượng
thì ít được chú ý nên dễ quên lãng, những ngày bình thường “mỗi ngày như mọi
ngày” thì nhớ làm chi bởi có gì đâu đáng
nhớ. Chính lúc, chính khi, chính cái chúng ta ghi nhớ nhất là lúc sự vật (không
gian) tập trung biểu hiện và chính lúc đó thời gian cũng được gom lại, “công
suất” tâm trạng cũng được thu mở tối đa. Có thể nói đây là sự cô đúc không-
thời gian cộng hưởng cao độ với tâm trạng. Nguyễn Trãi đã thể hiện sự dồn dập
của thời gian đi liền chiến thắng quân Minh: “Ngày mười tám trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế, Ngày hai mươi trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu, Ngày hăm lăm bá tước Lương Minh đại bại tử vong, Ngày
hăm tám thượng thứ Lí Khánh kế cùng tự vẫn”(Bình Ngô đại cáo).
Người ta thường nói
nước chảy đá mòn, có tác giả lại nói đến “nước mòn” để nói đến tác động ma
chiết của thời gian: “Thời gian trôi dẫu
nước cũng mòn” (Gửi bạn, Nguyễn Phú Liêu). Tuy vậy, phải nói rằng bước cảm
nhận táo bạo, độc đáo nhất về thời gian là “Màu
thời gian” của Đoàn Phú Tứ. Thời gian ở đây không còn dừng lại ở sự cảm nhận truyền thống là nhanh chậm,
ngắn dài, lùi vế quá khứ, hướng vào tương lai mà nhà thơ muốn nhìn, muốn ngửi,
muốn chiếm lĩnh, muốn phân chất hương và màu:
“Màu thời gian không xanh
Màu
thời gian tím ngát
Hương
thời gian không nồng
Hương
thời gian thanh thanh”
Thời gian là vô hình,
đương nhiên. Nỗ lực của con người và nhất là các nhà thơ nhà văn dù muốn “hữu
hình hóa”, muốn nó hiện hình thì cuối cùng nó vẫn mông lung huyền ảo. “Thời gian là khách bốn phương, nó lạnh lùng
bắt tay người bạn ra đi và mở tay ôm lấy người mới đến” (Shakespeare). Nó
có đó rồi không đó, ẩn hiệu trêu ngươi và cuộc đuổi bắt níu giữ trở nên bất
tận.
Thời gian luôn giúp ta lớn hơn và già đi nhanh chóng, thời gian quá khư, tương lai luôn làm ta phải chạy đua với nó đề hoàn thành công việc và cuộc sông, mời các bạn tham khảo các thông tin của bài viết sau >> Nhổ răng khôn kiêng gì? ?
Trả lờiXóa