ảnh internet
LÚA- cây lương thực
chính của nhiều dân tộc trong đó có người Việt. Có chuyện sau 1975, nhiều sinh viên Sài Gòn đi thực tế
ngoại thành, thấy lúa, có người ngạc nhiên: Cây lúa đây hả? Té ra quẩn quanh
thành phố, ăn cơm hàng ngày mà lúa là gì thì không biết.
Tùy trường hợp mà lúa mang nghĩa
chung hay cụ thể. Lúa- chỉ chung cây lúa và
hạt lúa; lúa má- chỉ cây lúa; lúa gạo- chỉ hạt lúa. Để thu hoạch
được hạt lúa phải qua nhiều công đoạn: trồng tỉa (làm đất, gieo sạ- cấy, làm
cỏ, theo dõi chăm sóc), thu hoạch (gặt, chuyên chở- gánh, đập hoặc suốt), bảo
quản (phơi phóng, giê sảy cho sạch, cất
giữ), ra hạt gạo còn phải xay, giã , sang, giần. Ở Nam bộ thường
ôm vác lúa đến chỗ suốt còn ở Trung và Bắc thường gánh về nhà rồi mới đạp, suốt…Hình
ảnh “Gánh gánh gánh thóc về…gánh về…gánh về”…trong một
bài hát hết sức sinh động vì thể hiện được nhịp chạy khi gánh thóc nặng vừa thể
hiện niềm vui thu hoạch. Ở Trung và Bắc người ta thường chất lúa bó thành từng
giã vòng tròn rồi người dắt trâu đi vòng quanh đạp, sau đó xảy tách riêng rơm
và thóc. Ở Nam
bộ trữ thóc trong ví bồ, Trung và Bắc
thường cất giữ trong tra, lẫm (chồ) để chống ẩm mốc và chuột bọ.
Cây lúa phát triển qua nhiều giai
đoạn, có những tên gọi rất hình tượng: lúa non- lúa thì (thời) con gái, lúa ngậm
đòng- lúa trổ đòng, lúa ngậm sữa, lúa uốn câu (quằn xuống vì nặng hạt).
Thành ngữ bán lúa non chỉ cảnh
người nông dân thiếu thốn bức bách, lúa chưa kịp chín đã phải bán trả nợ. Sau
này còn biến dạng gọi hoa hậu lúa non mỉa mai việc tổ chức thi hoa hậu nhí.
Ở miền Nam trước thường hay dung quán ngữ lúa
đời hàm nghĩ tàn đời, chắc do chữ úa mà ra?
Theo mùa vụ có lúa xuân hè, lúa hè thu, lúa đông
xuân, có vụ mùa, vụ chiêm- “Lúa chiêm
lấp ló đầu bờ- Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”. Thường thì làm hai vụ, có
nơi xen canh, tối đa là ba vụ lúa.
Có hàng nghìn loại lúa, phải là nhà
nông học chuyên nghiệp mới phân loại nổi. Nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỉ 18)
trong Vân Đài loại ngữ đã liệt kê
hàng trăm giống lúa. Có thể nói ông là người đầu tiên Việt Nam nghiên cứu
về lúa. Tùy thủy thổ mà có các loại lúa khác nhau. Lúa trời (lúa ma)- thường
có ở vùng Đồng Tháp Mười, hạt nhỏ, nước đến đâu lúa cao đến đó, thu hoạch bằng các lách xuồng vào giữa đám lúa, lấy sào lùa ép, đập lúa hai
bên vào; lúa sớm- gieo sớm và thu hoạch sớm trong vụ mùa; lúa
rẫy (lúa nương, phân biệt với lúa nước) gieo thẳng trên nương ở
miền núi; lúa nếp- hạt dẻo, to và
thơm dùng nấu xôi, làm bánh; lúa thần nông (IR)- trên cơ sở lai tạo các giống; lúa
mì- ở vùng ôn đới, thường dùng làm bánh mì; lúa mạch- ở vùng ôn đới,
hạt nẩy mầm dùng chế rượu bia. Các giống lúa địa phương tuy có khả năng thích
ứng cao nhưng do năng suất thấp nên mất dần; do nhu cầu lương thực, người ta
thường trồng loại lúa cao sản, lúa lai.
Hạt lúa có chắc (mẩy) có lép (dẹp). Chắc dành cho
người, dẹp dùng nuôi gà vịt. Cây lúa đang làm đòng mà bị mưa gió ngã đổ thường
bị hốp (háp), chỉ có vỏ, mất trắng. Nông dân thường chọn những hột lúa chắc mẩy
nhất từ đám ruộng tốt để làm lúa giống, còn lại thì cho vào bồ vô
bao. Thóc
lúa đầy bồ chỉ sự no ấm, thấy ngót bồ lưng bồ là lo. Lén xúc lúa
bồ đem đổi rượu thì khác gì treo
khóa miệng ăn gia đình con cái. Ăn luôn lúa giống chỉ cảnh ăn tàn do đói nghèo hoặc xả láng,
xơi kiệt nguồn tái sản xuất. Người nông dân quý hạt lúa, xem là hạt ngọc nên cố
không để rơi vải lãng phí. Người ta còn tận thu bằng cách đi mót (lượm) lúa
sót, cắt lúa chét- lúa nảy lên từ mầm ở các đốt gốc rạ…
Biệt danh tếu táo đặt cho người làm
ruộng là Hai Lúa hàm nghĩa quê mùa. Thực ra, người làm lúa ngày nay đã
áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật, mỗi người nông dân bên cạnh pho kinh
nghiệm phong phú đã tích trữ vốn kĩ thuật
dồi dào. Ai dám bảo họ quê.
2005- 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét