BÚT NGUYÊN TỬ
ảnh internet
Chuyển từ chế độ quân chủ lên dân chủ, từ tư tưởng quân quyền đến dân quyền là xu thế, là quy luật tất yếu trong dòng chảy lịch sử xã hội.
Có thể nói Mạnh Tử (372- 289 tước CN) là người đầu tiên có tư tưởng thân dân với luận điểm Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (Dân quý nhất, thứ đến là đất nước, vua chỉ là nhẹ (xem nhẹ vua)). Trước đó, Khổng Tử (551- 479 trước CN) khi đề cập đạo nhân (仁)chỉ xem trọng đại nhân (大人)(quân tử), dân (民) bị xem là tiểu nhân (小人).Trong xã hội cổ đại vừa phong kiến vừa nô lệ, tư tưởng dân vi quý lóe sáng, được ngưỡng mộ, sách Mạnh Tử được đưa vào ngũ kinh nhưng trong thực tế quan điểm đó không phát triển, không tiến lên được chút nào, tư tưởng quân chủ quân quyền vẫn độc quyền thống trị.
Nguyễn Trãi (1380-1442) dựa trên triết lí Khổng Mạnh, sớm phát huy quan điểm dân vi quý thành tư tưởng nhân nghĩa thân dân. Trong câu đầu của Bình Ngô đại cáo, ông khẳng định rành mạch: Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân (仁義之舉,要在安民- Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân). Dân là mục đích, định hướng chính cho nhân nghĩa, nói cách khác, hành động nhân nghĩa là để phục vụ dân. Khi được nhà vua giao soạn lễ nhạc, ông đã tâu: Không có gốc thì không đứng được, không có văn thì không hành được. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Xin bệ hạ chăm lo muôn dân để cho chốn thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu, đó là không mất cội gốc của nhạc vậy (Đại Việt sử kí toàn thư). Nhân nghĩa, lễ nghĩa đều có gốc từ yên dân, để phụng sự dân, phải được xuyên suốt trong quá trình của hành động chính nghĩa: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu (Thư gởi Phương Chính). Nhân nghĩa còn hàm nghĩa nhân đạo nhân ái, ông cảnh báo thủ đoạn bạo lực trấn áp mà các chế độ chuyên chế thường dùng: Quyền mưu bổn thị dụng trừ gian, Nhân nghĩa duy trì quốc thế an (Quyền mưu vốn là để trừ gian, Nhân nghĩa giữ cho thế nước được yên) (Hạ quy Lam Sơn 1). Nhân nghĩa không phải quyền biến mị dân mà phải thực sự yêu thương tôn trọng dân. Những điều phi nhân bất nghĩa, đi ngược lại nguyện vọng của dân sẽ bị nhân dân loại trừ: Lật thuyền mới biết dân như nước (Phúc chi thủy tín dân do thủy) (Quan hải). Một luận điểm rạch ròi mạnh mẽ, lời cảnh báo đanh thép đối với các chế độ chính trị, các nhà cai trị xã hội.
Yêu dân, Nguyễn Trãi càng vững vàng thêm tư tưởng nhân nghĩa của mình khi chứng kiến nỗi thống khổ của muôn dân: Thần châu nhất tự khởi can qua, vạn tính nao nao khả nại hà (Thần châu từ độ nổi binh đao, Muôn dân rên xiết biết làm sao) (Loạn hậu cảm tác) và nhất là cảnh quân Minh tàn hại, dân đen là nạn nhân của giặc, Bình Ngô đại cáo là bản cáo trạng đanh thép về tội ác giặc:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Giặc không chừa một thủ đoạn tàn ác nào mà không phạm:
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật bắt giò chim trả, chốn chốn lưới giăng.
Nhiễu nhân dân bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Giặc tàn hại: Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, dân đen đau khổ,điều đó càng phát huy tư tưởng nhân nghĩa thành quan điểm vững chắc và tinh thần điếu phạt (đánh giặc) mạnh mẽ để trừ bạo ngược, chiến thắng giặc cũng là chiến thắng của tư tưởng nhân nghĩa: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Nhân nghĩa không phải là sự ban phát ân huệ cho dân mà là trách nhiệm phụng sự: Ăn lộc đều ơn kẻ cấy cày (Bảo kính cảnh giới 19). Xưa nay thường nói ơn vua lộc nước, Nguyễn Trãi tiến thêm một bước là lộc đó đều do nông dân (kẻ cấy cày- dân đen) làm ra, ăn lộc dân thì phải trả ơn cho dân là chuyện đương nhiên, nhân nghĩa là đó.
Nhân nghĩa nên Nguyễn Trãi thường lo cho dân. Quan niệm Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu (Lo trước cái lo của thiên hạ) của Phạm Trọng Yêm được ông tâm đắc và cụ thể hơn từ lo cho thiên hạ đến lo cho dân đen: Bình sinh độc bão tiên ưu niệm (Bình sinh mình đã ôm hoài bão lo trước cái lo) (Hải khẩu dạ bạc), Thương sinh tại niệm độc tiên ưu (Vì dân đen luôn tâm niệm lo trước cho họ) (Mạn hứng 2). Ông luôn luôn tự răn bảo mình cũng như cảnh giới hàng quan lại: Song viết có nhiều dân có khó (Của cải (của quan lại) quá nhiều thì dân càng khốn khó) (Bảo kính cảnh giới), phải giữ tinh thần liêm chính công minh: Trị dân sơ lập lòng cho chính (Bảo kính cảnh giới 10), không có kế sách làm cho nước giàu binh mạnh thì làm quan vậy cũng chẳng ích gì đối với dân: Quốc phú binh cường chăng (chẳng) có chước, Bằng tôi nào khuở (thuở) ích chưng (với) dân (Trần tình 1). Nguyễn Trãi có thái độ quyết liệt đối với tham quan ô lại, xem là phản dân hại nước. Ông từng tâu: Phàm người có chức vụ coi quân trị dân đều phải dùng phép công bằng, làm việc cần mẫn, hết lòng thờ vua, hết sức chăm dân, bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng, bè đảng riêng tây phải bỏ, thái độ cố phạm phải chừa, coi công việc nước như công việc của chính mình lấy điều lo của dân làm điều lo cho bản thân. Xin bệ hạ xuống chiếu răn bảo nghiêm cấm; nếu ai không nghe không sửa ấy là kẻ đó tự huỷ diệt mình. Lo nghĩ cho dân hiện diện thường trực, nói về khi tiết tinh hoa của cây tùng như phẩm chất tài năng của quan lại, ông tưởng đến tinh thần phụng sự: Dành còn để đỡ (trợ) dân này (Tùng 3), vịnh cây cổ thụ ông cũng đề cập đến sự che đỡ cho dân: Tuy đà chưa có tài lương đống, Bóng cả như còn rợp đến dân (Lão dung). Một điều ông luôn tâm niệm là: Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách, Đam (Chăn dắt) dân mợ nữa (chớ để) trật (mất) lòng dân (Bảo kính cảnh giới 57). Dân mất lòng tin là nguy cơ không chỉ đối với hàng quan lại mà còn cả với chế độ.
Với tư tưởng nhân nghĩa, ông ước ao đất nước thịnh trị, nhân dân giàu có: Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân chàu (giàu) đủ khắp đòi (mọi) phương (Bảo kính cảnh giới 43), mơ một xã hội thái bình lí tưởng: Vua Nghiêu Thuấn dân Nghiêu Thuấn, Dường ấy ta đà phỉ thửa nguyền (Tự thán 4).
Ở ông, tư tưởng nhân nghĩa thân dân hình thành rất sớm, từ lúc còn thư sinh: Ức tích Lam Sơn ngoạn Vũ kinh, Đương thời chí dĩ tại thương sinh (Nhớ thuở Lam Sơn đọc Vũ Kinh, Chí ta đã hướng đến dân đen). Tư tưởng này đi suốt cuộc đời ông, ngay cả khi thất chí cáo quan trở về thì tấm lòng ưu dân ái quốc vẫn khôn nguôi: Bui (Duy) một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu (triều) đông (Thuật hứng 5).
14-9-25
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét