MỤC LỤC BLOG

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2025

TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA THÂN DÂN CỦA NGUYỄN TRÃI

BÚT NGUYÊN TỬ

 ảnh internet

            Chuyển từ chế  độ  quân chủ  lên dân chủ, từ tư tưởng quân quyền   đến dân  quyền    xu thế, là  quy luật  tất yếu trong  dòng chảy lịch  sử    hội.

            Có thể  nói Mạnh Tử (372- 289 tước CN) là người  đầu  tiên có    tưởng thân dân  với luận  điểm Dân  vi  quý, xã tắc thứ chi,  quân  vi khinh (Dân  quý nhất, thứ  đến    đất nước, vua chỉ  là nhẹ (xem nhẹ  vua)). Trước  đó, Khổng Tử (551- 479 trước CN) khi  đề  cập  đạo  nhân ()chỉ xem  trọng  đại nhân (大人)(quân tử), dân () bị   xem là tiểu nhân (小人).Trong     hội cổ  đại vừa phong kiến vừa nô  lệ,    tưởng   dân  vi quý  lóe  sáng, được ngưỡng mộ,  sách Mạnh Tử được  đưa vào  ngũ  kinh nhưng  trong thực tế quan  điểm đó không phát  triển, không tiến  lên được chút nào, tư tưởng quân chủ  quân quyền  vẫn độc  quyền thống  trị.

            Nguyễn Trãi (1380-1442) dựa trên triết    Khổng  Mạnh, sớm phát huy quan  điểm  dân vi quý thành tư tưởng nhân nghĩa thân dân. Trong câu đầu của Bình Ngô đại  cáo, ông khẳng  định rành  mạch: Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân (仁義之舉,要在安民- Việc nhân  nghĩa  cốt ở yên dân). Dân    mục đích, định hướng chính  cho nhân nghĩa, nói cách khác, hành   động nhân nghĩa  là để  phục vụ  dân. Khi  được nhà vua giao  soạn lễ  nhạc, ông   đã tâu: Không    gốc thì  không  đứng  được, không  có văn thì  không hành   được. Hòa  bình là  gốc của nhạc, thanh   âm là văn của  nhạc. Xin bệ hạ  chăm lo muôn  dân  để cho chốn thôn cùng  xóm vắng  không  còn tiếng hờn giận oán  sầu, đó là không mất  cội gốc của nhạc vậy (Đại Việt  sử kí toàn thư). Nhân nghĩa, lễ nghĩa  đều    gốc từ  yên dân, để phụng   sự  dân, phải    được   xuyên  suốt trong  quá  trình của hành   động chính nghĩa: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu (Thư gởi Phương Chính). Nhân nghĩa  còn  hàm nghĩa  nhân đạo nhân ái, ông cảnh  báo thủ  đoạn bạo lực trấn áp mà các chế  độ chuyên chế thường  dùng: Quyền mưu bổn thị  dụng  trừ  gian, Nhân nghĩa   duy trì  quốc thế  an (Quyền mưu vốn    để  trừ gian, Nhân nghĩa   giữ cho thế nước được yên) (Hạ  quy  Lam Sơn 1). Nhân nghĩa  không phải  quyền  biến mị dân    phải  thực  sự yêu thương tôn  trọng   dân. Những  điều phi nhân bất nghĩa,  đi ngược lại  nguyện  vọng của  dân  sẽ  bị nhân dân loại trừ: Lật thuyền mới biết dân như nước (Phúc chi  thủy tín dân do thủy) (Quan hải). Một  luận  điểm rạch ròi mạnh  mẽ, lời  cảnh báo  đanh thép đối  với các chế độ chính  trị, các nhà cai  trị xã  hội.

            Yêu dân, Nguyễn Trãi càng  vững vàng thêm tư tưởng nhân nghĩa  của  mình khi chứng kiến  nỗi  thống  khổ của muôn  dân: Thần châu  nhất tự  khởi  can  qua, vạn tính  nao  nao  khả  nại hà (Thần châu từ độ  nổi  binh  đao, Muôn dân rên  xiết biết  làm sao) (Loạn hậu cảm tác)   nhất  là cảnh quân Minh tàn hại, dân  đen  là nạn nhân  của  giặc, Bình Ngô đại cáo    bản cáo trạng đanh thép về tội ác giặc:

Nướng   dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ  xuống  dưới hầm tai vạ.

Giặc không chừa một thủ  đoạn tàn ác nào mà không phạm:

Người  bị   ép  xuống biển  dòng lưng  mò ngọc, ngán thay cá mập  thuồng luồng.

Kẻ  bị  đem vào  núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi  rừng  sâu nước độc.

Vét sản vật bắt  giò chim trả, chốn chốn lưới giăng.

Nhiễu  nhân dân bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Giặc tàn hại: Bại nhân nghĩa  nát cả  đất trời, dân đen đau khổ,điều đó  càng  phát huy tư tưởng nhân nghĩa thành  quan  điểm vững chắc và tinh thần điếu phạt (đánh giặc) mạnh  mẽ  để  trừ bạo  ngược, chiến thắng  giặc cũng    chiến thắng của tư tưởng nhân nghĩa: Đem  đại nghĩa   để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo.

            Nhân nghĩa   không phải  là sự  ban phát ân huệ  cho  dân    là trách nhiệm phụng   sự: Ăn lộc  đều ơn  kẻ  cấy cày (Bảo kính  cảnh giới 19). Xưa nay thường nói  ơn  vua lộc nước, Nguyễn Trãi tiến thêm một  bước là lộc  đó đều do nông  dân (kẻ  cấy cày- dân đen) làm ra, ăn lộc dân thì phải  trả  ơn cho dân là chuyện  đương nhiên, nhân nghĩa là đó.

            Nhân nghĩa nên Nguyễn Trãi thường  lo cho dân. Quan niệm Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu (Lo  trước cái lo của thiên hạ) của Phạm Trọng Yêm được ông tâm  đắc và cụ thể hơn từ  lo cho thiên hạ  đến  lo cho dân đen: Bình  sinh  độc bão tiên ưu niệm (Bình   sinh  mình  đã ôm hoài bão lo trước cái lo) (Hải khẩu dạ bạc), Thương  sinh tại niệm độc tiên ưu (Vì  dân đen luôn  tâm niệm lo  trước cho họ)  (Mạn hứng 2). Ông luôn   luôn tự  răn bảo mình cũng như cảnh giới hàng  quan  lại: Song viết có nhiều dân có khó (Của  cải (của  quan lại) quá nhiều thì  dân càng  khốn khó) (Bảo kính  cảnh giới), phải giữ tinh thần  liêm chính  công minh:  Trị  dân sơ  lập lòng cho chính (Bảo kính  cảnh giới 10), không  có kế sách  làm cho nước giàu  binh  mạnh thì  làm  quan vậy  cũng chẳng ích gì   đối với dân: Quốc  phú  binh   cường chăng (chẳng) có chước, Bằng tôi nào khuở (thuở) ích  chưng (với)  dân (Trần tình 1). Nguyễn Trãi  có thái độ quyết  liệt  đối với tham  quan ô lại, xem là phản dân hại nước. Ông từng tâu: Phàm người có chức vụ coi quân trị dân đều phải dùng phép công bằng, làm việc cần mẫn, hết lòng thờ vua, hết sức chăm dân, bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng, bè đảng riêng tây phải bỏ, thái độ cố phạm phải chừa, coi công việc nước như công việc của chính mình lấy điều lo của dân làm điều lo cho bản thân. Xin bệ hạ xuống chiếu răn bảo nghiêm cấm; nếu ai không nghe không sửa ấy là kẻ đó tự huỷ diệt mình. Lo nghĩ  cho dân hiện  diện thường  trực, nói về  khi tiết tinh hoa của cây tùng   như phẩm chất tài năng của   quan  lại, ông tưởng  đến tinh thần  phụng   sự: Dành   còn để  đỡ (trợ)  dân này (Tùng 3),  vịnh  cây  cổ thụ ông cũng đề  cập  đến sự  che  đỡ cho dân: Tuy đà chưa  có tài lương  đống, Bóng  cả như còn  rợp đến dân (Lão dung).  Một  điều ông luôn tâm niệm  là: Đọc  sách thì thông  đòi  nghĩa  sách, Đam (Chăn dắt)  dân  mợ  nữa (chớ  để) trật (mất) lòng  dân (Bảo  kính cảnh giới 57). Dân mất  lòng tin  là nguy  cơ không  chỉ  đối  với hàng  quan  lại mà  còn cả  với chế  độ.

            Với tư tưởng nhân nghĩa, ông  ước ao đất nước thịnh  trị, nhân dân giàu có: Lẽ  có Ngu cầm  đàn một tiếng, Dân chàu (giàu)  đủ khắp  đòi (mọi)  phương (Bảo kính  cảnh giới 43),   một    hội thái  bình lí  tưởng: Vua Nghiêu Thuấn  dân Nghiêu Thuấn, Dường  ấy ta đà phỉ thửa nguyền (Tự thán  4).

 Ở ông, tư tưởng nhân nghĩa thân dân  hình thành  rất sớm, từ lúc còn thư  sinh: Ức tích Lam Sơn ngoạn    kinh, Đương thời  chí  dĩ tại thương  sinh (Nhớ thuở Lam Sơn  đọc Vũ Kinh, Chí ta  đã  hướng  đến dân đen). Tư tưởng này  đi  suốt cuộc  đời ông, ngay cả  khi thất chí cáo quan  trở  về thì tấm lòng ưu dân ái quốc vẫn khôn nguôi: Bui (Duy) một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu (triều)  đông (Thuật  hứng  5).

14-9-25

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét