TIỂU HÙNG TINH
ảnh internet
CHUỘT là loài gậm nhấm, ăn tạp. Họ hàng nhà chuột nhiều loại nào chuột bạch lông trắng, thường nuôi làm thí nghiệm), chuột chù (chũi, xạ- có mùi hôi, chậm chạp, thường kêu ré lên khi gặp sự cố), chuột cống (mình to, thường sống trong hang hầm cống rãnh), chuột nhắt (lắt- mình nhỏ, thường sống trên cao). Ngoài ra còn có chuột túi (kangkuru- loài ăn cỏ thân lớn, chân sau dài, chân trước ngắn ngủn, có túi để mang con trước ngực- con vật biểu tượng của nước Úc). Chuột cũng biến nghĩa để chỉ các sự vật có hình dáng tương tự như chuột vi tính, cục u nổi lên khi bóp hoặc chặt mạnh mào bắp tay cũng gọi là con chuột. Từ ghép chuột bọ chỉ chung loài chuột còn ám chỉ những kẻ đục khoét trong xã hội.
Thử- tiếng Hán là chuột. Thạc thử (trong Kinh Thi)- con chuột lớn chỉ tầng lớp bóc lột. “Thạc thử thạc thử, vô thực ngã thử” (Con chuột lớn kia con chuột lớn kia, đừng ăn lúa thử của ta). Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài Tăng thử (Ghét chuột) có những câu: “Chuột lớn kia bất nhân, Gậm khoét thật thảm độc. Đồng ruộng trơ lúa khô, Kho đụn hết gạo thóc…”. Thử bì- da chuột. Kinh Thi: “Tướng thử hữu bì, nhân nhi vô nghì, bất tử hà vi?” (Chuột kia còn có da, người mà vô phép, không chết đi còn sống làm gì?). Thử thiết cẩu đạo (bọn trộm cắp nhỏ mọn (vặt) như chó như chuột).
Trinh thử (Con chuột trinh bạch) là tên truyện nôm Việt Nam. Nội dung kể lại chuyện chuột bạch goá chồng đi kiếm mồi nuôi con, bị chó rượt phải trốn vào nhà Chuột đực. Đang lúc Chuột cái vắng nhà, Chuột đực buông lời dụ dỗ, Chuột bạch vẫn kiên trinh. Khi Chuột cái về, Chuột bạch từ giả. Chuột cái lồng lên ghen rồi tới nhà Chuột bạch mắng chửi, bị chó vồ hụt rơi xuống nước. Tác giả (tương truyền là Hồ Huyền Quy) là người nghe được tiếng loài vật, chứng kiến chuyện từ đầu đến cuối vớt Chuột cái lên và giảng giải mọi điều đạo lí.
Tí là chi chuột đứng đầu thập nhị chi (12 con giáp). Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, khi Vân Tiên học thành tài, thầy cho xuống núi và phán một câu tiên tri có tính chất tử vi: “Bao giờ cho tới Bắc phương, Gặp chuột ra đường con mới nên danh” (Ở phương Bắc, năm Tí mới nên danh phận (đỗ đạt, lập nên công trạng). Nhiều người tin chuột rúc là điềm báo tin vui: “Thứ nhất đom đóm vào nhà, Thứ nhì chuột rúc thứ ba hoa đèn”.
Sát thủ, khắc tinh của chuột là mèo. “Con mèo trèo lên cây cau, Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà. Chú chuột đi chợ đường xa, Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo”. Chỉ mấy câu đồng dao mà vạch trần thói giả nhân giả nghĩa của kẻ mạnh và phản ứng của kẻ yếu. Mèo thăm chuột đã giả nhân, méo khóc chuột càng giả nhân. Mèo ăn chuột chưa ác bằng mèo vờn chuột, đùa bỡn trên sự sợ hãi và đau khổ của kẻ khác còn ác hơn sát hại họ. Thế nhưng lại có chuyện ngộ ở miền Nam trước đây (vùng Cồn Phụng, Bến Tre), có ông Đạo Dừa nuôi chuột và mèo chung một lồng, đi đâu cũng xách theo để kêu gọi chấm dứt chiến tranh, chung sống hoà bình.
Tranh dân gian Đông Hồ có bức Đám cưới chuột nổi tiếng cũng là nguồn cảm hứng cho Hoàng Cầm trong bài Bên kia sông Đuống: “Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã, Bây giờ tan tác về đâu?”. Tranh thể hiện cảnh rước dâu nhà chuột bên dưới, bên trên một số chuột khệ nệ bưng lễ vật nào chim bồ câu nào cá chép… đút cho lão mèo để xin đường. Té ra chuyện mãi lộ, ỷ quyền dựa thế xưa như trái đất rồi.
Nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine (Pháp) có bài Hội đồng chuột (Đeo chuông cổ mèo) thật thâm thuý. Bị mèo tàn hại, hội đồng chuột họp quyết định đeo chuông cổ mèo để mèo đến đâu leng keng đến đó giúp chuột núp tránh. Hội đồng bàn bạc sôi nổi và nhất trí cao nhưng chuột nào cũng viện lí do này khác để thoái thác. Cuối cùng đành giao công việc trọng đại này cho một tay khờ khạo chậm lụt đó là chuột chù. Nhận chuông thực thi trọng trách nhưng khi vừa thấy lão mèo, chù đã ngã lăn bất tỉnh. Đúng là nhiều thầy thối ma, nhiều sãi không ai đóng cửa chùa. Hiểu đầu voi đuôi chuột trong trường hợp này vẫn được, kế hoạch trời nhưng thực thi thì ôi thôi- một tẻo!
Chuột tượng trưng cho thói gian xảo. Chuột sa hũ nếp (chĩnh gạo) chỉ kẻ không ra gì, nhờ trúng mánh mà hưởng lộc. Cháy nhà ra mặt chuột chỉ sự bao che bưng bít, đến khi đổ bể mới lòi mặt gian. Lấp liếm, phô trương thắng lợi ngon lành lắm, đến sập tiệm, thanh tra té ra kho đụn đã ruỗng hết cả rồi. Đánh chuột vỡ bình hàm nghĩa trừ được cái nhỏ nhưng làm hư cái lớn đòi hỏi phải cẩn thận, khôn ngoan tỉnh táo khi trừ gian bở kẻ gian lắm mưu nhiều kế. Nhiều kẻ cũng lấy luận điểm này để bao che, biện minh cho thói chần chừ trước cái xấu cái ác.
Có một thờ kì ai cũng chê nghề giáo vì đồng lương ba cọc ba đồng nên học được thì tiếp tục học lên, học hành không ra gì mới vào sư phạm. Thi ngành nào cũng trượt, chỗ nào cũng chê thì về sư phạm. Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm là thế.
Đắc thế chuột là một truyện ngụ ngôn của Bút Nguyên Tử. Chuyện rằng mấy con chuột bám sống trong hạng cọp để kiếm chút thịt mỡ rơi vãi. Thấy điều kiện làm ăn thuận lới nên kéo cả bầy vào hang kêu réo phá phách um sùm. Cọp làm chúa rừng, muôn vật sợ uy riêng chuột lờn mặt, nhởn nhơ thậm chí còn tranh cả phần thịt của cọp. Bao nhiêu lần gầm gừ quát tháo, chụp vồ quyết xé xác chuột nhưng đều hụt, cọp bất lực buông xuôi. Chuột được thể càng lộng hành. Không dừng lại đó, lũ chuột còn rủ nhau lăn vào đống phân cọp rồi túa ra rừng. Muôn loài ngửi thấy phân cọp, tưởng chúa sơn lâm tới, ùa nhau mà chạy. Tiểu nhân đắc ý, sợ chưa!
Dân gian cũng có chuyện tạm đặt là Quan chuột. Vị quan phụ mẫu thanh liêm nọ trong khi soạn đồ đạc để hạ cánh an toàn bỗng phát hiện có con chuột đúc bằng bạc. Hỏi căn do, bà quan bảo nhờ trước đây xử cho làng nọ thắng kiện mà họ trả ơn. Hỏi sao trả bằng thứ này, bà quan đáp là do nói quan tuổi tí nên người ta tặng con chuột bằng bạc. Quan thanh liêm nghe, chậc lưỡi: Rõ mẹ mày ngu, sao trước không nói tôi tuổi sửu để người ta tặng cho con trâu bằng bạc thì giờ tha hồ mà xài.
Đời lắm chuột nên lắm chuyện chuột, nói sao cho hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét