TIỂU TỬ VĂN
ảnh internet
Bây giờ làng Phú (*) mình chưa có nước máy nhưng nhà nào cũng có giếng khoan, bơm lọc nước lấy lên từ lòng đất mà dùng kể cũng tiện lợi.
Ngược thời gian, khoảng 1960 về trước, người làng nhà gần sông thì gánh nước sông còn xa sông phải dùng nước giếng cạn (ngoài Bắc gọi là giếng thơi). Giếng là một vũng nước lớn và sâu nơi chỗ đất cao, đất được đào để đổ nền nhà hoặc đắp vườn tạo thành hố sâu hoắm có hình nón ngược, đường kính bề mặt khoảng 4-5m, sâu khoảng 3-4m. Giếng nằm chỗ đất ít phèn, trữ nước mùa mưa, đến mùa hè thì cạn dần, dùng cho cả xóm. Phải dùng cần vọt gồm một đoạn cây nối một đoạn thừng, móc vào gàu (bằng nhôm hoặc mo cau) quẳng xuống múc nước rồi cất lên đổ vào thùng. Nước giếng cạn không phèn nhưng không được trong, ngọt bằng nước sông. Nhiều nhà dùng lu riêng đựng nước sông để nấu nướng còn nước giếng chỉ để rửa ráy tắm giặt.
Số giếng cạn trong làng dùng cho cả xóm nên chỉ đếm trên đầu ngón tay: Những năm 60 thế kỉ XX còn lác đác vài giếng: Trước nhà ông Thức, trước nhà ông Duy, trước nhà bà Hương (giếng mụ Đệ), trước nhà bà Hoa (giếng mụ Xuân), trước nhà văn hóa, gần rào có giếng Bạc Bà (nghe đâu có gốc tích người Chàm, nếu đúng vậy thì đây là giếng cạn xưa nhất, trước khi tổ tiên làng vào khai phá), góc vườn ông Giao có giếng ông Trạc nhưng bỏ phế, bị bồi lấp thành cái vũng ao. Giếng chùa (nay gọi hồ Chùa) cũng là giếng cạn rất xưa. Một số giếng cạn được xây đúc thành giếng tây dùng về sau này. Riêng xóm Cồn Hàn hình thành sau, ở sát sông nên nhà nào cũng dùng nước sông, không dùng nước giếng. Cũng khoảng 1960- 1965, máy bơm nước tưới cho cánh đồng trong, nước được dẫn theo mương chạy theo đường đập, dân xóm trên nhờ vậy được gánh nước sông gần hơn trong suốt mùa hè nắng cháy.
Giếng cạn đã đi vào quên lãng nhưng nó từng là một phần thiết yếu trong cuộc sống dân làng cả hàng trăm năm trước, nhất là lúc chưa có sông có rào..
-------------
(*) Làng Phú Liêu, Triệu Tài, Quảng Trị
17-6-25
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét