MỤC LỤC BLOG

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2025

GIẾNG CẠN (chuyện xưa chưa cũ)

TIỂU  TỬ  VĂN

ảnh internet

            Bây  giờ  làng Phú (*) mình chưa có nước  máy  nhưng  nhà nào  cũng có giếng khoan,  bơm lọc nước lấy  lên từ lòng  đất mà  dùng kể  cũng   tiện lợi.

Ngược thời gian, khoảng  1960 về  trước, người làng nhà gần  sông thì gánh nước sông còn  xa  sông phải  dùng nước giếng cạn (cũng gọi là   giếng  đất, ngoài  Bắc  gọi    giếng thơi, giếng khơi- Đàn ông nông nổi  giếng khơi (Ca dao)). Giếng    một vũng nước lớn, đất  được  đào  để  đổ nền nhà hoặc đắp  vườn tạo thành  hố sâu hoắm có  hình nón ngược, đường kính  bề  mặt  khoảng  4-5m,  sâu  khoảng   3-4m. Giếng nằm chỗ  đất  ít phèn,  trữ nước  mùa mưa, đến mùa hè thì cạn dần, dùng  cho cả  xóm. Phải  dùng cần vọt  gồm một đoạn cây nối  một  đoạn thừng, móc  vào  gàu (bằng  nhôm hoặc mo cau) quẳng  xuống múc nước rồi cất  lên đổ  vào  thùng. Nước giếng   cạn  không phèn nhưng  không   được trong, ngọt bằng nước sông. Nhiều  nhà dùng  lu  riêng  đựng nước  sông   để nấu nướng  còn nước giếng  chỉ để rửa ráy  tắm giặt.

Số  giếng  cạn  trong làng dùng cho cả  xóm. Những năm  60 thế kỉ XX còn một số  giếng: Trước họ  Nguyễn Đức, trước nhà  ông Duy, trước nhà ông Thức, trước nhà bà Hương (giếng  mụ Đệ), trước nhà bà Hoa (giếng  mụ Xuân), trong  sân họ Nguyễn Quang, trước nhà văn hóa, gần  rào có  giếng Bạc Bà (nghe  đâu có  gốc tích Chàm, nếu đúng vậy thì  đây  là giếng cạn  xưa nhất, trước  khi  tổ tiên  làng  vào  khai phá), góc vườn  ông  Giao có  giếng ông Trạc nhưng bỏ phế,  bị  bồi lấp thành vũng ao. Giếng chùa (nay gọi hồ Chùa) cũng    giếng  cạn rất  xưa. Một  số giếng  cạn (giếng  đất) được   xây đúc thành giếng tây dùng  về  sau này. Riêng  xóm Cồn Hàn  hình thành   sau, ở  sát  sông nên nhà nào  cũng  dùng nước sông, không  dùng nước giếng. Cũng  khoảng  1960- 1965, máy  bơm nước tưới cho cánh đồng trong- sát gần làng, nước được dẫn theo  mương   chạy theo  đường  đập, dân   xóm trên nhờ  vậy được gánh nước sông gần  hơn  trong  suốt  mùa hè nắng cháy.

Giếng  cạn đã  đi vào  quên lãng nhưng nó từng là một phần  thiết yếu trong cuộc  sống  dân làng cả hàng trăm năm trước, nhất  là  lúc chưa có sông có rào..

-------------

(*) Làng Phú Liêu, Triệu Tài, Quảng Trị

17-6-25


1 nhận xét:

  1. 6-25, Nguyễn Quang Nguyên- Hồi ở nhà cháu nghe người lớn kêu - phân biệt giếng TA và giếng TÂY.
    Giếng ta đào rộng, cạn xung quanh đắp đất, múc nước phải dùng cần vọt như chú nói loại giếng này làng có hai cái, trước nhà cũ của bác Thơ một cái và trước chùa một cái.
    Giếng Tây đào hẹp sâu, xung quanh xây tường gạch trên có xây thành, múc nước bằng dây ko cần sào. Giếng Tây có thể là làm theo kiểu nước ngoài.... nên gọi Tây... Cả hai loại giếng trên chú đều gọi là giếng cạn cháu sợ dễ bị nhầm và khó hiểu cho mai hậu, cháu chỉ thắc mắc bấy nhiêu, có gì ko rõ nhờ chú chỉ bảo thêm ạ.
    Tiểu Hùng Tinh- Chú chưa nghe từ giếng ta, chỉ nghe từ giếng tây. Tây đây theo chú không phải phương tây mà xây đúc bằng gạch, đá hoặc sau này đúc bê tông. Tây có nghĩa như xây, gọi theo cụm động từ là tây giếng. Giếng cạn đây là để phân biệt với sâu. Nhiều nơi trong vùng cũng gọi chứ không phải chỉ làng mình.
    Nguyễn Đức Văn- Quê mình có từ giếng đất và giếng tây .Giếng đất ,thành giếng bằng đất ,giếng tây ,thành giếng bằng đá ,gạch ,hoặc bê tông . Hầu hết giếng đất đều có nước ngọt và trong nấu nước chè thơm ngon ,ngược lại giếng tây thì hầu hết nước đục ,phèn ,nấu nước chè không ngon
    Thế Phương- Giếng ta là không có lún bi giếng tây là có lún bi đó cháu
    Bon Huu- Với làng quê cậu có nhiều bài viết quá hay.nhất là về làng phú quê mình. Mà ít ai sưu tầm. thêm mấy chục năm nữa giai thoại của quê hương chắc con cháu ko biết đến

    Trả lờiXóa