TIỂU TỬ VĂN
ảnh internet
Hai khâu đoạn nhọc nhằn nhất để lúa thành gạo là xay giã, ở đây nói chuyện giã gạo.
Giã gạo thường là công việc của người lớn nhưng những lúc nhà neo người, trẻ con cũng phải gánh phần việc này. Ngày mùa, người lớn ra đồng, trẻ con giữ nhà, phải giã một hai cối gạo để trưa chiều người lớn về sàng giần nấu cơm. Chày dành cho người lớn nên quá nặng với trẻ con, giở lên giã xuống như một cực hình, giã xong một hai cối gạo thật ê chề rời rã. Tuổi chạy chơi mà bắt giã gạo, chán ngán gì bằng!
Trước năm 1960, vùng quê chưa có máy xay xát nên phải giã gạo bằng tay. Chày gạo thường là chày đứng (trày đựng) hoặc chày vồ (trày vồ). Chày đứng là một khúc gỗ nặng cứng cao khoảng 1,2-1,5mét, có chuốt thon nhỏ lại ở giữa để dễ cầm nắm. Còn chày vồ là khúc gỗ khoảng 6-7 tấc, giữa có gắn khúc cán để cầm tạo thành hình chữ T. Chày đứng mỗi lần giã thường lún sâu xuống cối, gạo mau trắng còn chày vồ thì ngồi để giã, nhẹ và tiện hơn.
Xưa có o Thít (bị mù) là người giã gạo chuyên nghiệp, từ sáng đến tối, ngày này qua tháng nọ giã gạo cho nhà ông Đình Nghiện, nơi có kẻ ăn người ở làm ruộng làm thợ nhiều. Bị mù nhưng o biết giã đến chừng mức nào thì gạo đủ trắng, chính xác không dư một chày.
Những lúc nông nhàn, nhiều gia đình tụ tập làm xáo. Mua lúa về xay giã sàng dần hì hục ngày đêm xong gánh gạo lên chợ bán. Lấy công làm lời, lãi chính là mớ tấm cám ít ỏi thừa ra đó!
Đặc biệt những nhà có đám chay, đám cưới, cần một lượng gạo lớn để nấu nướng đãi đằng thì phải nhờ người làng nhất là nữ thanh niên giã gạo giúp. Giã bằng chày vồ, mỗi cối 4 người gọi là giã tư. Người cùng một cối tuần tự giã, giã xuống hất lên cho thật nhuần nhuyễn, không để va (gọi là chang) vào chày khác. Thường phải giã vài đêm mới đủ số lượng. Tiếng thình thịch thình thịch vang động trong đêm, nói cười hò hát tạo không khí rộn rã, vui tươi lắm. Tiếng hò giã gạo cũng nhân những lúc này mà lan tỏa. Một người xướng thế là những người khá xô theo. Ví như một người hò xướng: À ơ hơ hơ… (Chơ) Nước giữa dòng có khi trong khi đục… Những người khác hò xô theo: À ơ hơ hơ hờ hờ hơ… Hò tiếp: (Chơ) Nghĩa vợ chồng có khi nhục khi (đợ) khi vinh… Hò xô theo: À ơ hơ hơ hờ hờ hơ… Cứ thế người này tiếp người khác, hết câu hò này qua câu hò khác, diễn xướng tập thể, rộn rã vui cười. Nói về hò thì o Xây trong làng là người có tiếng hò trong trẻo, mượt mà nhất. Tiếng hò của O thường xướng lên trong khi cấy hái, nơi đám đông hội hè, rất được mến mộ, tán thưởng.
Khoảng năm 1960, nhà ông Đội Xuyên (nhà ông Toàn) có lắp một cối chày đạp. Chày đạp là thân cây gỗ dài, đầu gắn một khúc gỗ ngắn làm chày. Theo kiểu đòn bẫy, đạp hất chày lên, thả thì chày giã mạnh xuống, đến trẻ con cũng giã được. Cả xóm nhẹ bớt phần nào việc giã gạo nhờ cối chày đạp này.
Khoảng năm 1963- 64, ông Quang Tiết có lắp đặt một máy xay lúa (bên nhà ông Cao, do ông Quang Kiệm chạy máy). Có thể nói đây là máy xay lúa gạo đầu tiên trong vùng, không chỉ dân làng mà các làng An Hưng, Tài Lương, Linh Yên, hàng 2-3 cây số cũng gánh lúa tới giã. Thế mới biết máy móc tiện lợi, giải phóng sức người đến cỡ nào. Máy chạy được một hai năm thì chiến tranh lan rộng, người dân lại lui về với việc xay giã thủ công. Cho đến sau 1975, vẫn còn gánh nặng tự xay tự giã, tự cung tự cấp.
Bây giờ, lúa gặt xong bán ngay ngoài đồng, mua gạo ăn, hỏi còn mấy ai biết chuyện xay giã sàng giần.
25-6-25
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét