TIỂU HÙNG TINH
ảnh internet
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Thu điếu được xem là bài thơ tiêu biểu với nét bút tinh tế, sinh động đặc tả cảnh thu nông thôn Bắc bộ.
Có người phát hiện rằng Nguyễn Khuyến dùng cái động để tả trạng thái tĩnh. Đúng vậy, nghe từng giọt nước tí tách càng nổi rõ đêm khuya thanh vắng; gợn sóng li ti, tầng mây lơ lững, tiếng lá rơi, tiếng cá đớp động càng làm cho cảnh thu thêm tĩnh lặng.
Bút pháp tài hoa của Nguyễn Khuyến không dừng lại đó. Tả mùa thu, Nguyễn Khuyến đẩy ngọn bút tới độ cực tả, chú ý khai thác các tính từ, đưa nó lên mức tuyệt đối làm tăng tối đa khả năng biểu hiện. Màu sắc thì “trong veo, biếc, xanh ngắt” rõ rệt, không chút tạp pha. Hình thể được thu nhỏ thu nhỏ lại “bé tẻo teo, tí” như một nét phẩy, một dấu chấm ấn tượng. Không khí “lạnh lẽo”, cảnh “vắng teo”.
Thơ tả cảnh thường ngụ tình. Có bài tình át cả cảnh, cảnh chỉ là tấm phông để treo tình, những mốc, những hình ảnh được lựa chọn cho phù hợp tương ứng để biểu đạt tình. Bà Huyện Thanh Quan tả cảnh trong bài Qua đèo Ngang cũng vậy. Nào “Nhớ nước đau lòng..”, “thương nhà mỏi miệng…”, rồi “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Hiển hiện trong toàn bài và dấu ấn cuối cùng là tình cảm, con người tác giả.
Ở đây, Nguyễn Khuyến lại khác. Người lẫn đi, chỉ nói thuyền mà thuyền thì “bé tẻo teo”. Nói “khách” rồi phủ nhận đi để làm nổi cảnh : “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Nói về mình “Tựa gối ôm cần” một cách kín đáo nên không làm nhạt, làm giảm sự thanh khiết của cảnh.
Hãy đọc một bài thơ cổ trong Bạt trạo ca (Quẫy mái chèo) của Thuyền Tử Hòa thượng cũng đề tài câu cá thấm đẫm triết lí:
“Bách xích ti luân trực hạ thùy
Nhất ba tài động vạn ba tùy
Dạ tịnh thủy hàn ngư bất thực
Không thuyền mãn tải nguyệt minh quy”
Tạm dịch:
Trăm thước dây tơ thả xuống hồ
Một làn sóng gợn sóng lô nhô
Đêm thanh nước lạnh bặt tăm cá
Thuyền không về lại bóng trăng phô.
Bài thơ mang hơi hướng buông xả của Thiền tông, không câu cảnh có mà câu cảnh không, câu dưới nước được trên trời, không được cá nhưng câu được cả một thuyền trăng.
Đêm đã vậy huống chi ngày, không những “lạnh lẽo” mà nước còn “trong veo” thì chuyện câu đây đâu còn là câu cá mà câu cảnh, chỉ cần được cảnh. Con người, tình cảm riêng của tác giả được giấu đi, làm mờ nhạt đi để cho cảnh hiện ra nguyên chất tự nhiên của nó nhờ vậy tác giả được cả một cảnh thu đặc sắc.
Nguyễn Khuyến sử dụng từ ngữ một cách tinh vi, thần tình. “Sóng biếc theo làn…” Làn mây, làn tóc, làn gió và đây là làn sóng ao thu, nhẹ như phớt thoảng. “Gợn tí” gợi hình ảnh làn nước xao rất nhẹ như nét lượn vờn cực nhỏ của sóng, tưởng không thể dùng cách gì còn gợi tả hơn được nữa. Thế nhưng không chịu dừng lại, tác giả viết “hơi gợn tí”. Ba chữ đều nhẹ, chữ “hơi” phớt mỏng, vờn nhẹ lên, thêm một chút nhẹ, chút nhỏ làm nổi bật lên cái cực nhỏ. Phải cao tay mới dám chấm điểm như vậy, tế vi đến thế! “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. “Đưa vèo”, động tác bay nhẹ như chao vờn kèm theo âm thanh tiếng lá, chưa đủ, Nguyễn Khuyến còn lẫy thêm một chút, khơi thêm tiếng “khẽ”, thêm một chữ cực nhẹ lên một cụm từ cực nhẹ, tinh tế tuyệt vời! Tản Đà cũng dùng chữ “vèo” tả âm thanh lá rơi: “Vèo trông lá rụng đầy sân” (Cảm thu, tiễn thu). Có tiếng kêu nhưng sao lá thu bề bộn quá, không lẻ loi mông lung như câu “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” của Nguyễn Khuyến. Thêm chút mỏng nhẹ, phớt chút mong manh vào cái rất nhẹ làm câu thơ rung lên, phải cao tay mới điểm xuyết khéo như thế.
Hơi thơ Thu điếu nhẹ nhàng; đối chỉnh nhưng không chát không gượng mà tự nhiên; gieo tử vận eo nhưng cao tay quá nên không thấy dụng ý, không chút khiên cưỡng; ngôn từ thuần Việt tinh tế điêu luyện dưới ngọn bút nhập thần, tạo ấn tượng tĩnh lặng, thanh thoát, đậm màu sắc và đường nét của cảnh thu Bắc bộ.
2000
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét